thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN

 

Số 1  - Tháng 3/2004

 


 

Tân bảo thủ và
chính sách ngoại giao Mỹ hiện nay
1

 

Trần Hữu Dũng2

 

Từ khi George W. Bush nhậm chức tổng thống (và nhất là sau 11 tháng 9 năm 2001), chính sách ngoại giao của Mỹ đã gây sửng sốt cho hầu như mọi người (dù ủng hộ hay chống Bush).  Sự ngạc nhiên này có thể vì hai lẽ chính:

 

Thứ nhất, vì cuộc bầu cử năm 2000 có nhiều mờ ám, Bush lại không được đa số phiếu của dân Mỹ,[3] nên ai cũng nghĩ là ông sẽ rụt rè, nhút nhát, vậy mà chính phủ Bush lại có những chính sách ngoại giao xác quyết khác thường.  Vài sự kiện nổi bật: (1) Quyết định đơn phương bất chấp dư luận quốc tế (rút khỏi thoả ước Kyoto về khí quyển, chống lại Toà Án Hình Sự Quốc Tế, hủy bỏ hiệp ước ABM với Nga); (2) ủng hộ Israel gần như không điều kiện; (3) nhất quyết lật đổ Saddam Hussein, chiếm đóng Iraq.  Chẳng những thế, dù bị chỉ trích, nhạo báng là đạo đức giả, là bịp dân, là chà đạp dân quyền (ngay với dân Mỹ), là bất chấp chủ quyền nước khác, Bush vẫn không chùn bước.

 

Thứ hai, và có lẽ nghịch lí hơn, Bush, hiển nhiên không phải là người trí thức, lại cầm đầu một chính phủ tương đối “trí thức”, nhất là trong lãnh vực ngoại giao và quốc phòng.  Đa số không có vẻ quá hám tiền tài hoặc quyền chức.  Một số lớn những người (trong lẫn ngoài chính phủ) có dấu ấn sâu đậm trên chính sách ngoại giao của Bush là những người sống tương đối đạm bạc:[4] viết sách, làm báo, dạy học, biện luận, dàn dựng một căn bản học thuyết cho chính sách ấy.  Sự gắn kết chính sách và lí thuyết như thế là một điều hiếm có xưa nay, nhất là trong lịch sử nước Mỹ. 

 

Nhiều nhà bình luận, nhà báo, đã cho rằng chính quyền Bush đang nằm trong tay một nhóm gọi là tân bảo thủ (neo-conservatives, gọi tắt là neo-cons).  Do đó, nhiều người cho rằng muốn hiểu chính sách của Bush thì phải hiểu thế giới quan tân bảo thủ. Nhóm này chẳng những chia sẻ nhiều tư tưởng giống nhau mà còn có một số liên hệ thân tộc (gia đình Kristol, chẳng hạn, đều nằm trong hàng ngũ lãnh đạo tân bảo thủ), và quan hệ việc làm (chẳng hạn như nhiều người tân bảo thủ chủ chốt đã biết nhau từ khi cùng làm trong ban nghiên cứu của thượng nghị sĩ Henry Jackson[5] những năm 1970, sau đó cùng là quan chức cao cấp trong chính phủ Reagan và Bush cha).  Song điều lôi cuốn nhiều chú ý là đa số thành viên của nhóm tân bảo thủ là người gốc Do Thái và triệt để ủng hộ Israel.[6]  Rồi gần đây lại thêm một phát giác mới: phần lớn nhóm này đã là môn đệ, hoặc chịu ảnh hưởng của Leo Strauss, một học giả trước đây ít người nghe tiếng.[7]  Những đặc điểm này tạo cho nhóm tân bảo thủ một phong cách bí hiểm, huyền thoại (theo nghĩa rộng). Đi xa hơn, có người cho rằng nhóm tân bảo thủ đã hoạt động như một băng đảng (bí mật) nắm mọi quyền hành trong chính phủ Bush, nhất là về chính sách đối với Trung Đông và châu Âu.  Bush gần như một bù nhìn!

 

Bài này nhằm giới thiệu nguồn gốc và ảnh hưởng của nhóm tân bảo thủ trong chính quyền Bush hiện nay, và đưa vài đánh giá về giả thuyết là phe này đã thật sự “đoạt chính quyền”.

 

1. Tân bảo thủ là gì?

 

Nguồn gốc của danh hiệu “tân bảo thủ” vẫn còn khá mù mờ. Oái oăm là, có thể người đặt danh từ này chính là Michael Harrington, một tác giả Mỹ nổi tiếng có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa,[8] là một người không ưa gì phe này.  Dù do ai đặt ra, lúc đầu danh hiệu này là để gọi một số trí thức “phóng khoáng” (liberal), từng theo phe tả (thậm chí nhiều người đã là đảng viên có thẻ của đảng cộng sản).  Những người nổi tiếng nhất trong nhóm này là các học giả và nhà báo Norman Podhoretz, Irving Kristol, Allan Bloom (dưới đây sẽ nói thêm).   Đa số là Trốt kít vào những năm 1930-40.  Tuy nhiên, sau những sự cố ở Liên Xô (Stalin) và Đông Âu (Hungari), họ quay sang chống cộng vào những năm 1950, và vì chiến tranh Việt Nam (cùng những xáo trộn trong xã hội Mỹ vào thời kỳ này) một số nữa trở thành cực hữu vào những năm 1960-70.  Gọi họ là “tân bảo thủ” để phân biệt với những người bảo thủ “kiểu cũ” như Barry Goldwater. [9]

 

Lúc đầu, lập trường tân bảo thủ là cá biệt về (bảo thủ) xã hội và văn hoá hơn là quân sự và ngoại giao.  Họ chế nhạo phe tiến bộ của Mỹ, cho là phe này quá ngây thơ, dễ tin, mềm yếu.  Như câu nói đáng nhớ của Irving Kristol, tân bảo thủ là những người phóng khoáng “bị thực tế trấn lột” (mugged by reality”).  Về chính trị và ngọai giao, họ hô hào một chính sách chống cộng cứng rắn, nhưng không đưa những chi tiết rõ  rệt.  Lập trường này trở thành rạch ròi hơn, chi tiết hơn, bắt đầu từ thời Reagan.  Nhưng trên hết, họ không ưa phe liberal của Mỹ vì phe này không ủng hộ Israel hoàn toàn như họ muốn.

 

 

2.  Leo Strauss và Albert Wohlstetter

 

Gần đây, một số báo chí đã phát giác là hầu như mọi người trong phái tân bảo thủ đều là học trò (hoặc học trò của bạn) của Leo Strauss, và ít hơn một chút, nhưng cũng không kém quan trọng, là của nhà nghiên cứu chiến lược quân sự Albert Wohlstetter.  Hai người này là ai?

 

     2.1. Leo Strauss

 

Leo Strauss (1899-1973) là một học giả gốc Do Thái sinh ở Đức, học trò của triết gia Martin Heidegger.  Năm 1934, sau khi Quốc xã lên cầm quyền, ông rời Đức đi lưu vong.  Sau một thời gian ở Pháp[10] và Anh, Leo Strauss định cư ở Mỹ từ năm 1937, làm giáo sư ở đại học Chicago trong nhiều năm cho đến khi hưu trí.  Strauss đã viết gần hai mươi quyển sách, hầu hết là về những nhà hiền triết cổ đại La Hi như Plato, Xenophon, Machiavelli, và triết gia Anh John Locke.

 

Tư tưởng của Strauss có hai nguồn.  Thứ nhất, ông đã sống qua chế độ Cộng hoà Weimar,[11] bị cả Quốc xã lẫn Cộng sản khuynh đảo.  Từ kinh nghiệm ấy, Strauss cho rằng bản chất của bạo chế là chủ nghĩa bành trướng (expansionism), và phải chống chủ nghĩa này đến cùng, bằng vũ lực nếu cần.  Strauss nhấn mạnh tính mỏng manh, dễ vỡ (fragility) của thể chế dân chủ.  Ông cho rằng, muốn trường tồn, một chế độ dân chủ phải đối đầu không nhân nhượng với bạo chế.  Như Shadia Drury (1988, 1999) nhận xét, Strauss rất khắc khổ (“Spartan”), cho rằng mọi người đều phải luôn đấu tranh để sinh tồn.  Một xã hội thái bình là một xã hội sẽ suy đồi.

 

Thứ hai, từ bài học của các nhà hiền triết cổ đại, Strauss nghiệm rằng thể chế chính trị có một sự quan hệ căn bản cho nhân loại vì nó nhào nặn con người.  Leo Strauss dị ứng với hệ tư tưởng “hậu hiện đại” (post-modernism). Theo Strauss, tính hiện đại là nguyên nhân của sự sụp đổ đạo lí (cơ sở của mọi chế độ), và sự mất mát những “giá trị Âu Châu” căn bản như “lí trí” và “văn minh”.  Strauss khẳng định có những giá trị, chân lí tuyệt đối và vĩnh cửu.  Tư tưởng này đặc biệt hấp dẫn cho những người bảo thủ chán ngán trào lưu chủ nghĩa “đạo đức tương đối” (moral relativism) của những thập niên 60, 70.  

 

Trong giáo trình của Leo Strauss, triết lí chính trị có một nghĩa khá đặc biệt.  Ông suy nghĩ nhiều về liên hệ giữa triết gia và xã hội của triết gia.  Nhìn trường hợp Socrates (bị bức tử) Strauss cho rằng triết gia là một đe doạ cho xã hội.  Dù suy tư là một sinh hoạt cao quý nhất của con người, đó là một sinh hoạt ngoài khả năng của đa số quần chúng, ông khẳng định. Xã hội đời thường không hiểu nổi chân lí và không dám trực diện sự thực.  Sự thực sẽ chỉ gây hỗn loạn trong công chúng.  Lí luận như vậy, Strauss cho rằng các bậc hiền triết phải giữ kín chân lí mà họ khám phá, chỉ truyền lại cho vài đệ tử thân tín bằng mật ngữ.  Cụ thể hơn, Strauss khuyên đồ đệ chẳng nên viết quá dễ hiểu.  Hãy chôn giấu sự thật vào giữa lòng sách (không nên tiết lộ ở những trang đầu, hoặc cuối sách mà người đọc dễ lật tìm!).

 

Nên nhớ rằng Strauss rất ngưỡng mộ Plato, người có ý nghĩ táo bạo là những vị vua hiền triết (philosopher kings) đôi khi phải phát ngôn những “gian dối cao thượng” (noble lies) để giữ trật tự trong đám đông thiếu hiểu biết (như những người tân bảo thủ sẽ làm sau này).  Hơn thế nữa, triết gia không những nên nói dối “cao thượng” với các nhà chính trị, họ còn phải lừa dối công chúng.  Strauss cho rằng đối phương luôn luôn cố tình đánh lừa ta, do đó, ta nên giả vờ tin họ, nhưng thầm lặng làm theo ý ta.  Nếu cần, phải che giấu sự thật, nói dối công chúng. Những điều này giải thích thái độ của tân bảo thủ (nhất là Wolfowitz) về vấn đề tình báo.

 

Strauss chịu nhiều ảnh hưởng của Thomas Hobbes (xin nhớ điều này khi đọc Robert Kagan sau đây).  Cũng như Hobbes, Strauss cho rằng bản tính con người là hung hăng, nham hiểm.  Bản tính này chỉ có thể kiềm chế được bằng một tổ chức chính quyền mạnh mẽ, trên cơ sở dân tộc.  Strauss đặt niềm tin vào chiến tranh không ngừng (perpetual war), không phải hoà bình không ngừng. Shadia Drury nhận xét:  Quan điểm này tất nhiên đưa đến một chính sách ngoại giao có tính tấn lấn, sừng sỏ (“aggressive, belligerent”)[12]

 

Tuy Leo Strauss có ảnh hưởng đến nhóm tân bảo thủ, ảnh hưởng đó có lẽ không nặng và xấu như lời cáo buộc của những người vốn không ưa chính quyền Bush.  Dù Strauss là một giáo sư có sức lôi cuốn, được học trò mến phục, nhưng ông viết (có thể là cố tình) rất khó hiểu, nên mỗi người hiểu ông một khác. Strauss được hầu hết mọi người công nhận là một học giả uyên bác, một giáo sư tận tâm với môn đệ, không có tham vọng chính trị cá nhân.  Song, những người tôn sùng Strauss (như Peter Berkowitz) thì coi ông là thành tâm tận tụy cho tự do và chân lí, còn những tác giả (như Shadia Drury) không ưa Strauss thì cho rắng bản thân ông cũng là “phát xít” không thua gì bọn Quốc xã mà ông thù ghét.

 

Ảnh hưởng của Strauss mạnh nhất ở điểm ông cho rằng phải theo lời dạy của các nhà hiền triết cổ đại, rằng thành phần trí thức ưu tú có trách nhiệm dìu dắt người lãnh đạo, rằng lắm khi không thể tiết lộ sự thật cho công chúng. Những tư tưởng này của Strauss đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên thế giới quan của học trò ông (và cho những người này một tinh thần “bè đảng” với nhau).  Hiển nhiên, bịp dân không phải là độc quyền của tân bảo thủ, nhưng lí thuyết của Strauss cho nó một cứ điểm triết học.

 

Điều mà ai cũng công nhận là Strauss (qua môn đệ) đã đưa vào tư tưởng chính trị Mỹ một cai nhìn u ám và bi quan về xã hội, con người, và lịch sử.  Hành trang tư tưởng của tân bảo thủ là cái nhìn ấy, cộng với ý thức về sức mạnh của Mỹ và cơ hội mà Mỹ đang có, và đàng sau đó (phần nào) là nhiệt tình cho Israel.  Strauss cũng ý thức hơn về “bạn” và “thù”, có tiếng dội sau này trong câu nói của Bush:  “Các bạn hoặc là đi theo hoặc là kẻ thù của chúng tôi”.[13]

 

Cũng nên nói thêm, chính vì Leo Strauss và môn đệ là những người mới di cư sang Mỹ (như Max Boot, sinh ở Nga)  –  thậm chí nhiều người hiện không có quốc tịch Mỹ[14]  –  nên phái tân bảo thủ hay cãi nhau với phe “cựu bảo thủ” về vấn đề di dân.  Phe cựu bảo thủ (như Patrick Buchanan) thì cho rằng Mỹ phải thắt chặt luật nhập cư, còn chủ trương của phe tân bảo thủ là “càng đông càng tốt”.  Trong những tháng dẫn đến chiến tranh Iraq, tranh cãi kịch liệt nhất có lẽ là giữa nhóm Buchanan-Novak (bán nguyệt san The American Conservative) và nhóm Kristol-Frum-Goldberg (Weekly Standard, National Review).  Những người khác như Henry Kissinger thì đã công khai thú nhận là không hiểu nổi phái tân bảo thủ muốn gì.  Nói chung, dân đảng Cộng hoà cố cựu (như Brent Scowcroft hay James Baker, ngay chính Dick Cheney) thì nghĩ đến quyền lợi kinh tế nhiều hơn.

 

     2.2. Albert Wohlstetter

 

Wohlstetter (1914-1977) xuất thân là giáo sư toán và đã dạy ở nhiều đại học như University of Southern California, Chicago, vv.  Tuy nhiên ông được biết nhiều nhất như một chiến lược gia quân sự của “lò nghiên cứu” RAND.  Trong cuơng vị này, Wohlstetter đã rất thân cận với các giới chức cao cấp của Lầu Năm Góc và nhiều thành viên quốc hội Mỹ, nhất là nghị sĩ Henry Jackson.

 

Cũng như Strauss, Wohlstetter đã để lại ảnh hưởng qua học trò, và nhất là mạng lưới học trò cũ mà qua đó ông đã giới thiệu họ với nhau.  Người đầu tiên (trong nhóm tân bảo thủ) bị Wohlstetter  “hớp hồn” là Richard Perle (sẽ nói thêm dưới đây).  Năm 1959, khi còn là học sinh trung học, Richard Perle được con gái của Wohlstetter mời về bơi hồ tắm sau nhà.  Perle mê Wohlstetter từ dạo ấy.

 

Sau những năm ở miền nam California, Wohlstetter về làm giáo sư ở đại học Chicago.  Chính ông đã dạy và hướng dẫn Paul Wolfowitz viết luận án tiến sĩ.  Richard Perle cũng muốn về học với ông ở Chicago nhưng không được trường này chấp nhận vì điểm kém.  Tuy vậy, chính Wohlstetter đã giới thiệu Wolfowitz và Perle về làm cho thượng nghị sĩ Henry Jackson, tạo cơ hội cho hai ông này biết nhau từ đó.

 

Muốn hiểu ảnh hưởng của Wohlstetter, nên nhớ lại là trong thời kỳ chiến tranh lạnh, lối suy nghĩ chung của những nhà chiến thuật Mỹ là (a) Mỹ nên có nhiều tên lửa, bom hạt nhân, và tên lửa tầm càng xa, bom càng nặng ký càng tốt; (b) khả năng trả đũa ồ ạt sẽ làm đối phương không dám tấn công.   Khai triển “triết lí” này, chiến lược của Mỹ là dựa trên quan niệm “Mutual Assured Destruction”, cùng tận diệt (gọi tắt là MAD, còn có nghĩa là “Điên”).   Cụ thể, cách ngăn ngừa Liên Xô tấn công là phải có những vũ khí hạt nhân đủ mạnh, bố trí khắp châu lục, trên trời, dưới đất, ngoài biển, để vẫn còn đủ trả đũa tiêu diệt Liên Xô, dù có bị Liên Xô tấn công trước.

 

Wohlstetter bác bỏ lối suy nghĩ “MAD” ấy.  Theo ông, thuyết này sai vì hai điểm. Thứ nhất, nó “vô đạo đức” vì ngầm chấp nhận mức thương vong chắc chắn là rất cao của thường dân.  Thứ hai, không một lãnh tụ Mỹ nào sẽ có can đảm trả đũa (dù bị tấn công trước) vì trong thâm tâm họ biết quá rõ là hậu quả sẽ là tận thế.  Đối thủ của Mỹ biết vậy, và do đó họ sẽ có thể tấn công trước.

 

Vì Wohlstetter cho rằng đối phương có thể sẽ hạ thủ trước, ông ta chú trọng đến những phương án mà chính người lãnh đạo Mỹ phải dùng đến vũ khí.  Cụ thể, Wohlstetter đề nghị Mỹ có chính sách ngăn chận từng bậc (“graduated deterrence”): Chấp nhận rằng Mỹ có thể có những chiến tranh hạn chế (limited wars).  Trong những cuộc chiến tranh này, Mỹ có thể dùng cả vũ khí nguyên tử chiến thuật (tactical nuclear arms) cùng với những vũ khí chính xác và khôn ngoan.[15]

 

Cụ thể hơn, Wohlstetter chủ trương hai điểm (1) quân đội phải lanh nhẹn (nimble) và (2) vũ khí phải chính xác.  Nếu được như vậy thì, theo Wohlstetter, mọi hiểm hoạ sẽ được nhanh chóng “trung tính hoá” (neutralized) trước khi chúng hiện thực, hoặc bằng những lời răn đe có sức thuyết phục, hoặc bằng cách tấn công thật sự.

 

Wohlstetter ủng hộ chiến tranh Việt nam, ủng hộ vũ khí nguyên tử, và chống hiệp ước SALT/ABM.  Đối thủ nổi tiếng nhất của Wolhstetter là Hans Morganthau, tương đối là “bồ câu” trong những vấn đề này.

 

Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt Wohlstetter quay sang những vấn đề khác.  Ông không cho là Liên Hợp Quốc có thể ngăn ngừa các quốc gia  “côn đồ” (“rogue”), và không tin những hiệp ước giải giới như ABM.  Năm 1995, Wohlstetter viết một bài cho Wall Street Journal trong đó ông lí luận là sự lan tràn của những “bạo chúa gieo rắc kinh hoàng” như Saddam Hussein, Slobodan Milosovic chỉ có thể bị diệt trừ bằng một “liên minh” (“coalition” -- để ý chữ này, thay vì “đồng minh” như trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đang được dùng trong chiến tranh Iraq).  Liên minh này sẽ sẵn sàng ủng hộ, làm hậu thuẫn cho Mỹ, với những lực luợng chính xác và “biết phân biệt” (discriminating)

 

Ngoài Perle và Wolfowitz, vài người nữa trở nên thân cận với nhóm tân bảo thủ cũng vì là học trò của Albert Wohlstetter ở Chicago. Trong số đó có Ahmed Chalabi (thủ lãnh Iraqi National Congress[16]), Zalmay Khalilzad (viên chức Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ đặc trách Afghanistan), Andrew Marshall (đặc trách nghiên cứu về các chiến thuật hiện đại trong Bộ Quốc Phòng Mỹ). Donald Rumsfield cũng bị nhiễm ảnh hưởng của Wohlstetter.[17]

 

 

3.  Paul Wolfowitz

 

Paul Wolfowitz (sinh năm 1943) phó bộ trưởng quốc phòng, thường được xem là lãnh tụ nhóm tân bảo thủ trong chính phủ Bush.  Cha Wolfowitz là gốc Do Thái, di cư sang Mỹ năm 1920, từng làm giáo sư thống kê tại đại học Cornell.  Thuở vị thành niên, Wolfowitz  theo cha sống một thời gian ở Israel, và có chị gái lấy một người Israel.  Paul Wolfowitz lúc đầu chuyên ngành toán, sau đổi sang hoá học, rồi lấy tiến sĩ khoa học chính trị ở đại học Chicago. Trong thời kì chiến tranh Việt Nam, ông được hoãn dịch vì lí do học vấn. 

 

Khi còn học ở Cornell, Wolfowitz thụ giáo với Allan Bloom, một giáo sư triết bạn của Leo Strauss.  Ở Chicago, Wolfowitz viết luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của Albert Wohlstetter.[18] Tốt nghiệp, Wolfowitz đi dạy ở Yale, nhưng nhờ móc nối của Wohlstetter, năm 1973 gia nhập ban nghiên cứu của nghị sĩ Henry Jackson, cùng nhóm với Richard Perle.  Vào thời Reagan, Wolfowitz là thứ trưởng ngoại giao đặc trách Đông Á (có “công” sắp xếp cho Ferdinand Marcos lưu vong), sau đó làm đại sứ ở Indonesia.  Trong chính phủ Bush cha, Wolfowitz đổi sang Lầu Năm Góc (làm thứ trưởng đặc trách chính sách), trực tiếp dưới quyền Cheney. Khi Clinton lên, Wolfowitz trở về đại học, làm trưởng khoa quan hệ quốc tế tại đại học Johns Hopkins.

 

Vào năm cuối (1992) thời Bush cha, Wolfowitz chỉ huy một nhóm diều hâu trong Lầu Năm Góc soạn thảo một báo cáo có tựa là “Hướng dẫn hoạch định quốc phòng” (“Defense Planning Guidance”, gọi tắt là DPG).   Tài liệu này là “bản đồ chính sách” của Mỹ cho thế kỉ 21, trong đó Wolfowitz (được Cheney nhiệt tình ủng hộ) chủ trương ba điểm:

 

(1) Với sự sụp đổ của Liên Sô, từ đây về sau Mỹ sẽ không để nước nào, dù đồng minh hay đối thủ, thách thức vị thế cường quốc số một của Mỹ. Mỹ phải có sự hiện diện quân sự thường trực khắp nơi để ngăn ngừa mọi quốc gia có ý cạnh tranh với Mỹ bất cứ đâu, ở bất cứ lãnh vực nào (kinh tế hay quân sự).

 

(2)  Chủ thuyết ngăn chận (containment) của Mỹ thời chiến tranh lạnh không còn là hợp thời nữa.  Từ nay Mỹ phải nhắm “thiết lập và củng cố một trật tự mới”, bằng cách đánh phủ đầu các nước khác, nếu cần.

 

(3) Thay vì dựa vào các thể chế quốc tế đa phương (như Liên Hợp Quốc), Mỹ nên lập những liên minh cho “từng trường hợp”  (ad hoc) để đối phó với mỗi cuộc khủng hoảng (khi hết khủng hoảng thì cũng hết liên minh).

 

“Hướng dẫn hoạch định quốc phòng” của nhóm Wolfowitz đã bị hầu hết chính giới và báo chí Mỹ lúc ấy chỉ trích kịch liệt, cho là quá hiếu chiến, ảo mộng đế quốc, do đó vẫn còn được chính thức xếp là “tối mật” cho đến nay.  Tuy nhiên nó là cơ sở của “Chiến Lược An Ninh Quốc Gia” (National Security Strategy (NSS)) do Bush con ký ngày 21 tháng 9 năm 2002.  Chính Wolfowitz, bốn ngày sau 11/9, đã đề nghị Bush nên tấn công Iraq thay vì Afghanistan. 

 

Vào giữa thập kỉ 90, có thêm một yếu tố mới ảnh hưởng đến hoạt động của nhóm tân bảo thủ: Chính sách của Israel và sự đắc cử của Benjamin Netanyahu (sau khi Yitzhak Rabin, người hùng của hiệp định Oslo, bị ám sát năm 1995).  Cụ thể, từ mùa xuân 1997 Wolfowitz và nhóm diều hâu của đảng Cộng Hoà bắt đầu cổ vũ cho một chiến sách cứng rắn hơn đối với Iraq.

 

Với đề nghị của Douglas Feith (xem dưới đây), năm 2002 Wolfowitz cho thiết lập “Vụ Kế hoạch Đặc biệt” (“Office of Special Plans”) do Abram Shulsky[19] làm thủ trưởng, báo cáo trực tiếp cho Feith.  

 

Abram Shulsky cũng là học trò của Leo Strauss ở Chicago, cùng lúc với Wolfowitz. Nên nhắc lại, đối với Strauss, “nghệ thuật giữ bí mật” là một trong những di sản trí thức đáng nhớ nhất của các nhà hiền triết cổ đại.  Ngay từ năm 1999, Shulsky (và Gary Schmitt[20]) viết bài “Leo Strauss and the World of Intelligence (By Which We Do Not Mean Nous)”, (“Leo Strauss và Thế giới Tình báo”).[21]  Trong bài này, lấy ý Strauss, Shulsky và Schmitt cho rằng tình báo Mỹ có nhiều nhược điểm (1) Một là, ngành này đã không thực sự thông hiểu “bản tính lật lọng” (duplicitous nature) của những chế độ mà Mỹ đang đối đầu.  (2) Hai là, sự bất lực của ngành này khi mà đối thủ cố tình che giấu (deliberate concealment). (3) Ba  là, tình báo Mỹ vẫn còn dùng phương pháp “chứng minh” của các ngành khoa học xã hội (dựa vào các phân tích định lượng, xác suất, vv..)

 

Theo Shulski (học từ Strauss) tình báo phải đi tìm cái “nghĩa kín” (“hidden meaning”), phải nhìn thông tin qua lăng kính của triết lí chính trị để hiểu thực chất của các chế độ khác nhau.  Dĩ nhiên, nhóm Shulsky không tin CIA và DIA,[22] mà nghe lời của Ahmed Chalibi và nhóm Iraqi National Congress hơn.  Cheney và nhóm diều hâu tân bảo thủ đã dựa vào nhóm của Shulsky hơn là vào CIA.  Chính giám đốc CIA (trong điều trần ngày 9 tháng 3, 2004) cũng xác nhận là nhóm này đã báo cáo riêng cho Nhà Trắng sau lưng CIA.

 

Trong nhóm tân bảo thủ trong chính phủ Bush, Wolfowitz có lẽ là một người khó hiểu nhất.  Nhiều người cho rằng Wolfowitz là người tương đối có lí tưởng (dù sai lầm), thật lòng muốn truyền bá cái “dân chủ” của Mỹ đến những quốc gia khác.  Không như những người tân bảo thủ khác, Wolfowitz không biện hộ cho chính sách Mỹ trên căn bản lợi ích kinh tế vật chất của Mỹ.

 

 

4. Richard Perle

 

Richard Perle (sinh năm 1941), thạc sĩ chính trị học (Đại học Princeton, 1967), là bạn của Wolfowitz từ khi hai người cùng làm cho nghị sĩ Henry Jackson.  Trong phái tân bảo thủ, Perle là người chịu ảnh hưởng của Wohlstetter nhiều nhất.  Ngoài ra, ông cũng thân cận với nhà bình luận Irving Kristol, “bố già” phái này.[23]  Trong thời Reagan, Perle làm phụ tá bộ trưởng quốc phòng, nổi tiếng là hiếu chiến, cực lực chống mọi hiệp ước kiểm soát vũ khí, do đó thường được gọi là “Ông hoàng U ám” (“Prince of Darkness”).  Cũng có người gọi Perle là “Diều hâu của diều hâu” (“The hawks' hawk”). 

 

Ở những thời điểm khác nhau, Perle kêu gọi phải có thêm vũ khí nguyên tử tốt hơn, chế nhạo ý niệm “kiểm soát vũ khí”, đòi xé bỏ hiệp uớc ABM, khẳng định rằng Liên Xô không đủ sức chạy đua vũ khí với Mỹ.  Perle hô hào phải chiến thắng ở Việt Nam (đổ bộ miền Bắc nếu cần).  Ông ta ủng hộ Israel chiếm Lebanon, lật đổ chính quyền Sandinistas ở Nicaragua, hối thúc Mỹ nhìn nhận Jerusalem là thủ đô của Israel, cam kết bảo vệ Đài Loan, và công khai khinh miệt Liên Hợp Quốc.

 

Năm 1996 Perle là tác giả chính (cùng với bảy người nữa, trong đó có Wolfowitz, Feith, Wurmser) một báo cáo[24] cho chính trị gia Israel cực hữu Benjamin Netanyahu .  Đó là một sách lược hết sức hiếu chiến, khuyên Israel xé bỏ hiệp ước Oslo, “giải phóng” Iraq, thay đổi chế độ ở Syria, Saudi Arabia, Jordan...

 

Khi Bush con lên cầm quyền, Perle được mời làm nhân vật số 3 ở Lầu Năm Góc song từ chối, có lẽ vì muốn đứng ngoài chính phủ để tiện kinh doanh.  (Perle có nhiều dính líu tai tiếng đến hoạt động buôn bán vũ khí của Israel, và sau này cố vấn cho các công ty hưởng lợi nhờ Bộ An Ninh Nội Địa của Mỹ mới thành lập).  Cho đến gần đây, ông là chủ tich của Defense Policy Board, một ban tư vấn chính sách quốc phòng có rất nhiều ảnh hưởng ở Lầu Năm Góc. Vì bị tai tiếng lợi dụng móc nối để kinh doanh, Perle phải từ chức chủ tịch Defense Policy Board vào tháng 3/2003, và từ chức hẳn vào tháng 3/2004.

 

 

5.  Những người tân bảo thủ khác trong chính phủ Bush

 

     5.1. Condoleezza Rice

 

Condoleezza Rice, cố vấn an ninh quốc gia của Bush thật ra không phải là người phe tân bảo thủ ngay từ đầu.  Bà tốt nghiệp ở đại học Denver và con đuờng tiến thân của bà nhờ nhiều vào nhóm cựu bảo thủ như Brent Scowcroft,[25] George Shultz.[26]  Tuy nhiên, bà cũng có nhiều quan điểm tân bảo thủ, nhất là về cái tối thượng của quyền lợi nước Mỹ . (Bà thường mở đầu các cuộc phỏng vấn, thuyết trình, với câu hỏi: “Quyền lợi của Mỹ là gì?”)  Bà được nhiều người biết qua bài  “Protecting the National Interest” (“Bảo vệ Quyền lợi Quốc gia”) đăng trên Foreign Affairs năm 2000. Trong đó, Rice (như các người tân bảo thủ khác) cũng kêu gọi Mỹ lật đổ Saddam Hussein, nhưng là qua các nhóm đối lập Iraq thay vì dùng lính Mỹ.  Trong phe diều hâu, Rice là người hay dùng “đạo đức” để biện hộ cho chính sách Mỹ, có lẽ do ảnh hưởng phần nào của gia đình (cha là giáo viên kiêm mục sư, mẹ cũng là giáo viên).   Condoleezza Rice rất tương đắc với Richard Perle ở chỗ cả hai đều mạnh mẽ chủ trương Mỹ không cần tham vấn nước nào khác khi ra quyết định.  Bà khinh miệt chính sách đa phương của các chính phủ trước, nhất là của Clinton.

 

Thật sự, phe tân bảo thủ không coi Condoleezza Rice (bỏ đảng Dân Chủ sang đảng Cộng Hòa năm 1983) như là cùng nhóm của họ.  Một phần là vì lúc còn làm cho Scowcroft, Rice ủng hộ Gorbachev thay vì Yeltsin, trong khi phe Cheney, Wolfowitz, Libby thì ủng hộ Yeltsin chống lại Gorbachev.  Có lẽ vì không tin cẩn Rice, phe diều hâu gài hai người vào làm phụ tá cho bà.  Một là Stephen Hadley (đàn em của Cheney và Wolfowitz), chủ tịch một ủy ban cấp thứ trưởng họp nhiều lần mỗi tuần để bàn chuyện ngoại giao và quốc phòng.  Người kia là Elliot Abrams, từng là phụ tá của Reagan, bị ra toà vì vụ buôn bán vũ khí với Iran.  Abrams cầm đầu phòng Trung Đông sự vụ trong hội đồng an ninh quốc gia của Condoleezza Rice.  Ông ta cũng là con rể của Norman Podhoretz (xem dưới đây, đoạn về William Kristol).

 

 

     5.2. John Bolton

 

Bolton là phụ tá bộ trưởng tư pháp trong thời Reagan, chuyển sang làm phụ tá bộ trưởng ngoại giao (chuyên trách vấn đề các tổ chức quốc tế)  trong thời Bush cha, và hiện là thứ trưởng ngoại giao chuyên trách kiểm soát vũ khí và an ninh quốc tế.  Bolton không phải là gốc Do Thái, tuy nhiên ông ta là đàn em của Jesse Helms,[27] gần gũi với phái “Christian right” (đạo Tin lành cực hữu) hơn là những người tân bảo thủ khác.  Ông ta từng nói “Nếu toà nhà tổng thư ký Liên Hợp Quốc ở New York bị nổ tung mất 10 tầng thì cũng không có hại chi cả”. [28]

 

 

     5.3. Douglas Feith

 

Phụ tá trực tiếp cho Wolfowitz ở Lầu Năm Góc Douglas Feith, luật sư, đã từng làm phụ tá cho Perle trong thời Reagan,[29] Feith nổi tiếng là một người tính tình rất “khó chịu” và thường là nguyên do xung khắc giữa Bộ Quốc Phòng và Bộ Ngoại Giao Mỹ.  Feith là gốc Do Thái diều hâu cực hữu, luôn nghĩ đến quyền lợi của Israel.  Trong bài “A Strategy for Israel” (“Một Chiến lược cho Do Thái”) năm 1997, Feith (viết chung với Richard Perle) bảo Israel phải tái chiếm các khu vực hiện do nhà cầm quyền Palestine cai quản, dù phải trả cái “giá bằng máu” đắt.  Thay vì “đổi đất lấy hoà binh”,  Feith khuyến cáo Netanyahu hợp tác với các quốc gia láng giềng để lật đổ Hussein. Feith hiện phụ trách “Office of Reconstruction and Humanitarian Assistance for Iraq” (“Văn phòng Tái thiết và Viện trợ Nhân đạo cho Iraq”).

 

 

     5.4. David Wurmser

 

David Wurmser, phụ tá đặc biệt cho Bolton, là nhân vật hiếu chiến nhất trong bộ ngoại giao.  (Nên để ý: Colin Powell bị Bolton và Wurmser là người của Cheney và Wolfowitz bao vây.)  

 

Wurmser không phải là phe “đạo đức” (như Condoleezza Rice), hay lí tưởng dân chủ, song, gần như hơn ai hết, ông ta nhìn chính sách Mỹ qua lăng kính quyền lợi của Israel.  Tóm tắt, Wurmser xem Mỹ và Israel như một đối với tất cả các quốc gia khác ở Trung Đông.  Năm 1999 Wurmser cho xuất bản quyển  “Đồng minh của bạo chúa: Sự Thất bại của Mỹ trong việc Đánh bại Saddam Hussein”[30] (Perle viết lời tựa), phác hoạ hình ảnh Trung Đông sau khi Saddam bị lật đổ, nhất là ảnh hưởng đối với Syria và Iran, sẽ “tốt” đến bực nào. Theo Wurmser, Mỹ và Israel phải đập tan – không chỉ giải giới –  những chế độ “cực đoan” ở Trung Đông, cho dân vùng này bài học rằng nếu chống lại Mỹ hoặc Israel thì phải diệt vong.  Wurmser kêu gọi Mỹ và Israel phải để ý khai thác ngay cơ hội đến từ khủng hoảng.  Ông ta viết: “Khủng hoảng có thể là cơ hội”.  “Hỗn loạn là tốt” (“chaos is good”) “đoạn tuyệt” (“clean break”) là những câu Wurmser thường hay nói.  Sách lược chiến tranh cho Mỹ và Israel do Wurmser phác hoạ được xuất bản vào tháng giêng năm 2001, chín tháng trước ngày 11/9.  Vợ của David Wurmser là Meyrav Wurmser (con gái một lãnh tụ cực hữu Israel) cũng là một tác giả năng động trong nhóm tân bảo thủ, chuyên viết về những kịch bản gián điệp “rùng rợn” (chằng hạn như Saddam Hussein và Al Qaeda đã cộng tác với nhau như thế nào, CIA cố tình “chơi xấu” Bộ Quốc Phòng Mỹ ra sao, v..v..).

 

     5.5.  Ahmed Chalabi và Judith Miller

 

Cũng nên ghi thêm là Paul Wolfowitz và Ahmed Chalabi là bạn thân hồi còn học ở Chicago (gần đây, Chalabi đã bị thất sủng với nhóm tân bảo thủ Mỹ vì có tin cho rằng Chalibi đã hứa với Iran là sẽ bảo vệ quyền lợi Iran, không dùng Iraq để làm bàn đạp chống Iran).  Nhóm Wolfowitz (Middle East Media and Research Institute -- MEMRI) còn có  Judith Miller, nữ ký giả nổi tiếng của tờ New York Times, chuyên trách về vũ khí sinh hoá.  Chính Judith Miller hay viết những bài trên New York Times bảo là “theo nguồn tin thông thạo” Iraq có đầy những vũ khí hũy diệt hàng loạt (WMD), và cũng giúp quảng cáo Chalabi với báo giới.

 

6.  William Kristol

 

Trong lúc nhánh tân bảo thủ của Paul Wolfowitz nghiêng nhiều về mặt chiến thuật (chủ trương đánh phủ đầu), và nhánh của Richard Perle nhấn mạnh đến quyền quyết định đơn phương của Mỹ, thì nhánh thứ ba, tiêu biểu là William Kristol, cổ vũ cho vai trò đế quốc của Mỹ.

 

William Kristol (sinh năm 1953) là tiến sĩ chính trị học, có một thời dạy Harvard.  Ông là con của nhà bình luận tân bảo thủ tên tuổi Irving Kristol (chủ bút tờ Public Interest) và bà Gertrude Himmelfarb, một trí thức cũng khá nổi danh.  Bạn thân của Irving Kristol là Norman Podhoretz, chủ bút nguyệt san Commentary  (tự xưng là cơ quan ngôn luận của người Mỹ gốc Do thái).  Norman Podhoretz là cha vợ của Elliot Abrams (xem đoạn về Condoleezza Rice phần trên). 

 

Trừ vài năm làm chánh văn phòng cho phó tổng thống Dan Quayle (thời Bush cha),  William Kristol hoạt động ngoài chính quyền, ăn nói khôn ngoan, nổi tiếng là trí thức, có biệt danh là “bộ óc của Dan Quayle”.   Kristol hiện là tổng biên tập tuần báo Weekly Standard (chủ là ông trùm báo chí cực hữu người Úc Rupert Murdoch). William Kristol là điển hình cho một nhánh quan trọng của phái tân báo thủ, một thứ “hậu phương trí thức”.  Họ là những người năng nổ phát tán tư tưởng tân bảo thủ qua các cơ quan ngôn luận, tranh đấu trên mặt trận tư tưởng hơn là trong nội bộ chính quyền như Perle, Wolfowitz.

 

Weekly Standard được coi là ống loa của nhóm tân bảo thủ, đã cổ vũ “thay đổi chế độ” -- chẳng những ở Iraq, mà còn ở  Saudi Arabia, Syria, vv.. --  ngay từ thập kỉ 90.  Kristol là bạn thân của Perle, Kagan (xem dưới đây) và giao thiệp rộng rãi trong đảng Cộng Hoà.  Tuần báo này hô hào Mỹ dùng sức mạnh quân sự để bảo vệ quyền lợi và “giá trị” của Mỹ khắp mọi nơi, chớ ngần ngại làm đế quốc.  Trong cuộc bầu cử năm 2000, nhóm này ủng hộ McCain thay vì Bush (cho là Bush quá yếu), và thường chỉ trích Colin Powell về cái mà họ gọi là tính “nhút nhát” của ông này.[31]

 

Chính bộ phận này của phe tân bảo thủ đã tạo cho phe này một uy thế đáng sợ.  Ngoài Kristol còn có Rich Lowry ở tờ National Review, Paul Gigot phụ trách trang bình luận của tờ Wall Street Journal,  Policy Review (của Hoover Institution), National Interest (của Conrad Black, nhà tỷ phú bảo thủ dân Anh); Commentary (tạp chí do Irving Kristol sáng lập).  Theo họ thì Mỹ cần phổ biến “dân chủ” và “giá trị” kiểu Mỹ trên thế giới, và nếu cần, sử dụng quân sự vào việc đó.

 

 

7.  Những người tân bảo thủ khác ngoài chính phủ

 

     7.1.  Robert Kagan

 

Một người nữa cũng thuộc phe “Tân Đế Quốc”, hay viết chung với William Kristol, là ký giả Robert Kagan (sinh năm 1959, thạc sĩ Harvard). Ông này là một viên chức trong chính quyền Reagan từ năm 1984 đến 1988, cộng tác với Carnegie Endowment for International Peace, một “lò nghiên cứu” của Mỹ. Kagan thường viết cho Weekly Standard, Policy Review, Washington Post. [32]

 

Cùng với William Kristol, Kagan là kiến trúc sư của chủ nghĩa can thiệp tân bảo thủ (neoconservative interventionism).  Hai người cùng viết bài  “Về một Chính sách Ngoại giao Reagan Kiểu Mới”[33] đăng trên Foreign Affairs năm 1996, bảo rằng Mỹ phải trở thành “bá chủ hoàn cầu” (global hegemony) và rằng chính sách ngoại giao Mỹ phải nhằm khuyến khích cái mà Kagan gọi là “những giá trị nêu ra trong Tuyên Ngôn Độc Lập” của Mỹ. [34] Cụm từ mà Kagan và Kristol dùng là “benevolent hegomony” (bá chủ nhân từ) để gán cho vai trò mà Mỹ phải có trong thế kỉ 21.[35]

 

Trong một bài quan trọng[36] trên tạp chí Policy Review năm 2002 (và thành sách năm 2003), Kagan có hai nhận xét chính: Một là, thế giới quan của Mỹ và châu Âu bây giờ là rất khác nhau, và hai là, sở dĩ châu Âu ngày nay là “thiên đàng” (chữ trong tựa sách) là nhờ “quyền lực” của Mỹ.

 

Theo Kagan, sau khi trải qua nhiều thế kỉ xâm lấn, đánh giết nhau, với hai trận Thế Chiến để lại quá nhiều tàn phá thương vong, châu Âu chỉ muốn được hoà bình, yên ổn sinh sống.  Ước vọng này được củng cố thêm trong hơn nửa thế kỉ qua, sau khi nước Đức chẳng những hết hiếu chiến mà còn tái thống nhất trong hòa bình, hội nhập vào cộng đồng châu Âu. Tóm lại, châu Âu ngày nay gần như một “thiên đàng”, sống trong một thứ thái bình vĩnh viễn như triết gia Immanuel Kant đã dự tưởng, trong đó pháp chế, ngoại giao, tinh thần nhân nhượng ngự trị. Vì đã thành công giải quyết các vấn đề của họ mà không cần vũ lực, các nước châu Âu ngày nay cho rằng mọi tranh chấp, ở bất cứ đâu, đều có thể giải quyết cách ấy.

Mỹ, theo Kagan, có cái nhìn khác. Đối với Mỹ, thế giới vẫn còn như một khu rừng man rợ đầy dã thú (như trong triết lí Hobbes), chỉ nể sợ quyền lực. Do đó, Mỹ có bổn phận làm người giữ trật tự an ninh cho nhân loại. Kagan nhấn mạnh: châu Âu đã hưởng thái bình thịnh vượng trong hơn nửa thế kỉ qua chính là nhờ Mỹ. Từ việc phòng thủ lục địa này trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đến bảo đảm nguồn dầu hoả, đến thống nhất nước Đức, đến mang lại hoà bình ở Balkan, tất cả là nhờ sức mạnh quân sự, kinh tế, và sự lãnh đạo của Mỹ. Hơn nữa, theo Kagan, Mỹ không giống những đế quốc thực dân châu Âu ngày xưa. Mỹ là một bá chủ “nhân từ”, “quảng đại”, chỉ muốn truyền bá những giá trị tiến bộ của nhân loại: “dân chủ”, “tự do”, “kinh tế thị truờng”. Người châu Âu biết rõ như vậy, Kagan khẳng định.

Song, theo ý Kagan, chính vì những dị biệt trong thế giới quan, và nhất là những chênh lệch quá lớn về sức mạnh quân sự, Mỹ và châu Âu không còn cùng một “ngôn ngữ”, không còn nghĩ giống nhau về vai trò của quyền lực trong các vấn đề quốc tế. Nói theo Kagan, hai bên không còn chia sẻ một “văn hoá chiến lược” (“strategic culture”). Câu nổi tiếng nhất của Kagan là “Người Mỹ đến từ sao Hoả, người Âu đến từ sao Kim.”

Vì những lí do trên, theo Kagan, không gì khó hiểu về sự khác nhau hiện nay giữa hai bờ Đại Tây Dương: chính cách của Mỹ là phản ảnh sức mạnh của Mỹ, còn chính sách châu Âu là phản ảnh sự nhược yếu của châu này. Sự “chia tay” này không phải là nhất thời, chỉ xảy ra vì người cầm đầu chính phủ là ai đó, nhưng sẽ mãi mãi. Cụ thể, đối với những người chỉ trích thái độ “cao bồi” của chính quyền Bush, Kagan khẳng định rằng ngay Clinton cũng đã thay đổi chính sách từ đa phương (nhiệm kỳ 1) sang đơn phương (nhiệm kỳ 2).

Kagan không ngạc nhiên về thái độ bài Mỹ ở châu Âu những năm gần đây. Mỹ, với tham vọng bá quyền, sử dụng ngôn ngữ của quyền lực, châu Âu – quá “lí tưởng” – thì dùng ngôn ngữ của hoà bình. Vì ngân sách quốc phòng ít oi, tiếng nói của các nước châu Âu trong các liên minh quân sự của họ với Mỹ ngày càng ít được nghe. Chính sự chênh lệch quân sự giữa châu Âu và Mỹ, theo Kagan, đã làm yếu đi liên hệ giữa hai bờ Đại Tây Dương. Hơn nữa, sự sụp đổ của Liên Xô không những đã làm Tây Âu mất đi một đối thủ chiến lược, nó còn làm giảm đi ảnh hưởng chính trị của Tây Âu khắp thế giới,

Kagan ca tụng ngôi vị độc tôn của Mỹ. Ông mạnh dạn khẳng định Mỹ đã làm nhiều điều tốt hơn xấu, rằng thế giới ngày nay tốt đẹp là nhờ sự khống trị, bá quyền của Mỹ. Kagan cho rằng Mỹ không nên để các thể chế quốc tế ràng buộc, làm giảm hiệu quả những hành động đơn phương của Mỹ.

Theo Kagan, các nước Tây Âu đã không dám trực diện hiểm hoạ của Iraq, mà đối với Mỹ thì quá rõ ràng. Thái độ “hiếu hoà” của châu Âu, theo Kagan, không phải vì châu Âu đạo đức gì hơn Mỹ, nhưng chỉ vì châu Âu quá yếu đuối về quân sự. Tuy nhiên, Kagan không đổ lỗi hoàn toàn cho Tây Âu, ông cũng cho rằng chính quyền Bush quá kiêu căng. Ông ta khuyến cáo chính quyền Bush nên nể trọng hơn ý kiến của các quốc gia khác. Tuy nhiên cuối cùng Kagan vẫn nghĩ rằng Mỹ có thể đơn phương hành động, không cần sự đồng ý của châu Âu.

Cái mới trong ý kiến của Kagan không phải ở chỗ ông cho là có sự dị biệt giữa thái độ của Mỹ và Châu Âu, nhưng ở cách ông giải thích sự dị biệt đó. Có lẽ Kagan là người có trách nhiệm tinh thần lớn nhất cho sự chia rẽ giữa Mỹ và châu Âu hiện nay.  Có lẽ điều Kagan nói mà đáng nhớ nhất là ông ta công khai ủng hộ “tiêu chuẩn kép” (“double standard”).  Cũng nên nói thêm là Kagan thường chỉ trích Colin Powell và khuyến cáo Mỹ nên mở rộng chiến tranh ngoài Afghanistan.

 

Theo Kagan thì vai trò giữa Mỹ và Châu Âu đảo ngược sau Thế Chiến I.  Ngày nay Âu Châu quá “hiếu hoà”, nhút nhát.    Mỹ “hiếu chiến” không phải vì Âu Châu có văn hoá hơn, Mỹ “cao bồi hơn” nhưng tại vì Âu châu yếu hơn, Mỹ mạnh hơn.

 

     7.2.  Max Boot

 

Max Boot là một tác giả còn rất trẻ (sinh năm 1969), từng giữ chức biên tập trang bình luận của tờ Wall Street Journal.  Ông viết rất siêng năng, với tác phẩm gây nhiều dư luận là quyển “Những Cuộc Chiến tranh Man rợ vì Hòa bình: Chiến tranh cỡ nhỏ và Sự Phất lên của Quyền lực Mỹ”[37](2002).  Trong tác phẩm này, Boot kiểm lại kinh nghiệm đế quốc của Anh và Mỹ trong hơn hai thế kỷ qua và đưa ra một ý kiến táo bạo: Mỹ phải khai sáng cho những nước “kém văn minh”, bằng vũ lực đế quốc nếu cần. 

 

Theo Boot, không thể tránh đựơc những cuộc “chiến tranh nhỏ”.  Đó là hậu quả tất nhiên của sức mạnh của Mỹ.  Mỹ đã luôn luôn quá mạnh ở khắp nơi trên thế giới, do đó không thể tránh nhập cuộc dù có khi sự can thiệp ấy không thể biện minh trên tiêu chuẩn “chính trị thực tế” (“realpolitik”).  Dù muốn dù không. Mỹ phải chuẩn bị cho vai trò ấy.  Câu hỏi là Mỹ có làm được việc đó tốt hay không.  Hơn nữa, theo Boot, Mỹ không nên đi vào những chiến dịch như vậy với hi vọng sẽ không bị thương vong.  Phải chấp nhận thương vong.

 

Max Boot khẳng định Mỹ đang là nước mạnh nhất hoàn cầu, vậy thì hãy tận dụng quyền lực đó, chớ né tránh rụt rè.  Theo Boot, Mỹ không nên chỉ bảo vệ “quyền lợi quốc gia”  (Boot đi xa hơn Condoleezza Rice) nhưng phải mạnh dạn hơn, làm nhiệm vụ “cảnh sát đế quốc” (“imperial policing”).  Mục đích không phải chỉ là đánh bại địch thủ về mặt quân sự, nhưng còn là phải “xây dựng quốc gia” (“nation building”), nghĩa là phải sẵn sàng chiếm đóng lâu dài các nước khác.  Ngây ngất trong ý kiến đó, Boot còn thêm rằng một chính sách như vậy không cần thông qua quốc hội Mỹ, chỉ cần sự quản lí của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, với sự ưng thuận của nước chủ nhà (như kiểu Đại Hàn trước đây). Chính Max Boot, trong một bài báo trên tờ Financial Times vào đầu tháng 7/2003 đã kêu gọi Mỹ thiết lập một Bộ Thuộc Địa.  

 

Không ngạc nhiên gì khi thấy Max Boot và những người “Tân Đế Quốc” (hoặc Tân Thực Dân) như ông múa bút trên diễn đàn của tạp chí tân bảo thủ như  Weekly Standard, National Review (tổng biên tập là Rich Lowry), đánh trống khua chiêng đòi đánh chiếm Iraq.  Đối với họ, “thay đổi chế độ” ở Iraq chỉ là bước đầu.  Dùng Iraq làm bàn đạp, Mỹ  sẽ kế tiếp thay thế các cố đạo (“mullah”) ở Iran, Wahhab ở Saudi Arabia, đó là không nói đến bàn đạp đã có sẵn ở Balkans, ở Afghanistan, ở Trung Á.

 

     7.3.  Eliot Cohen

 

Tuy có lẽ không phải do sự phân công tiền định, Eliot Cohen đã giúp nhóm tân bảo thủ chống lại một lời chỉ trích khác: đó là trong đám của họ chưa ai từng đi lính chiến đấu (Bush là thành viên lính cảnh vệ (National Guard) thì không kể).  Cohen hiện là giáo sư ở trường Cao Đẳng Hải Quân (Naval War College), nhưng đã từng làm việc với Wolfowitz trong chính quyền Bush cha, và là thành viên của Ban Tư vấn Chính sách Quốc phòng (Defense Policy Board). 

 

“Đóng góp” quan trọng gần đây của Cohen là quyển “Supreme Command” tán tụng tài lãnh đạo của các lãnh tụ dân sự như Lincoln, Churchill, Ben-Gurion, Clemenceau.  Nghiên cứu bốn vị này, Cohen cho rằng tuy khác nhau về nhiều mặt, họ giống nhau ở chỗ (1) rất tò mò, (2) nhiều trực giác, (3) đọc rộng, nhất là về lịch sử và tiều sử, (4) trong những khi khủng hoảng, hết sức cố gắng trau giồi kiến thức, thu thập thông tin.  Họ không cứng nhắc khi đeo đuổi mục tiêu.  Họ thách thức những người thuộc quyền, và có khả năng không nhân nhượng, đáng kể là dám chấp nhận số thương vong thường dân cao.[38] 

 

Cohen kết luận rằng khi các lãnh tụ dân sự giao phó toàn quyền cho tướng lãnh (như Johnson, Clinton) thì có phần chắc là thất bại.  Theo Cohen, những lãnh tụ kiệt xuất trong thời kỳ chiến tranh là những người đích thân tham gia hoạch định chiến thuật quân sự.  Cohen cho rằng “vấn đề” với các tướng lãnh là họ ngại mạo hiểm (risk averse), bị ám ảnh bởi chiến tranh vừa xảy ra (mà không nghĩ đến cái sắp tới) và đôi khi chỉ lo bảo vệ quyền lợi binh chủng của mình.  

 

Nhờ Cohen, nhóm diều hâu tân bảo thủ (không ai có một ngày mặt quân phục) có cớ bác bỏ những chế nhạo việc họ hoàn toàn thiếu kinh nghiệm chiến tranh.

 

 

8.  Tân bảo thủ văn hoá

 

Sẽ là thiếu sót nếu chỉ xem phái tân bảo thủ (và nhất là Leo Strauss) về mặt chính trị hoặc ngoại giao.  Theo tạp chí The Economist thì ảnh huởng sâu đậm nhất của Strauss không phải ở chính sách ngoại giao, nhưng về chính sách nội bộ của Mỹ (qua những người như Leon Kass, John Walters, Lynne Cheney).  Và cũng như tuần báo này nhận xét: rốt cuộc có một sự oái oăm tuyệt vời:  chính quyền Bush thường bị (nhất là Âu châu) khinh miệt là thiếu giáo dục, lại là một chính quyền bị ảnh hưởng nhiều nhất của triết lí cao xa, nhất là triết lí Âu Châu, không khác gi các nước Châu Âu cũ!!!

 

Trên mặt trận văn hoá, người phổ biến rộng rãi tư tưởng của Leo Strauss là Allan Bloom. Ông này là tác giả quyển “best seller” The Closing of the American Mind,[39] và là thầy của Francis Fukuyama và Paul Wolfowitz ở Chicago.  Allan Boom là một người nhiều ấn tượng mà cuộc đời đã được nhà văn Saul Bellow (Nobel văn chương 1976) dựa vào để viết quyển tiểu thuyết Ravelstein (trong đó Wolfowitz cũng được xuất hiện qua một nhân vật phụ) năm 2000.[40]

 

Cả Strauss và Bloom chỉ trích kịch liệt chủ nghĩa “đạo đức tương đối” (moral relativism), viện dẫn những lời giáo huấn của các học giả cổ đại, và có một quan điểm “elitist”[41] về vai trò của giáo dục.  Là học giả trong truyền thống Socrates, hai ông này nhiệt liệt tin vào chức vụ “quân sư”, vai trò mà Kristol đã đóng đối với Dan Quayle.

 

Về xã hội, tân bảo thủ chống lại chính sách “tích cực nâng đỡ” (“affirmative action”) của nhà nước, theo đó dân da màu, chẳng hạn, phải được ưu tiên thuê khi họ xin việc làm, hoặc nhận vào đại học.  Phái tân bảo thủ không cho là xã hội nên đặt định những loại “hạn ngạch” như thế, dù là với thiện chí đền bù những nạn nhân của sự kỳ thị trong quá khứ, hay bị thiệt thòi vì những lí do xã hội khác.  Họ chế nhạo phong trào phụ nữ đòi quyền lợi giống như nam giới, cho rằng vai trò của phụ nữ là làm mẹ, làm nội trợ, không phải đi làm kiếm tiền. Họ cũng cho là nhà nước phải nâng đỡ trường đạo như trường công.

 

Về văn hóa, những người tân bảo thủ không ưa chính sách đa văn hoá (multiculturalism). Họ cho rằng văn minh của Mỹ phải trung thành với truyền thống văn minh tây phưong, nước Mỹ là nước Do Thái – Thiên chúa giáo (Judea-Christian).  Họ than phiền về tình trạng suy đồi của văn hoá hiện đại mà họ cho là hậu quả của sự đánh mất những giá trị tây phương cổ truyền.   Đây là nền tảng tư tưởng của những người bảo thủ văn hoá như Allan Bloom mà sau này có tiếng vọng ở Francis Fukuyama và Lynne Cheney.[42]  Họ chế nhạo phong trào “phải đạo chính trị” (“political correctness”), coi đó là phản Mỹ, đi ngược văn minh Mỹ.

 

Một tác giả nữa cũng tự nhận đã chịu ảnh hưởng của Leo Strauss là Dinesh D’Souza, một loại “trẻ ngỗ nghịch”,[43] gốc Ấn Độ.[44]  Chàng này cho biết điều Leo Strauss gây nhiều ấn tượng với anh ta nhất là chỗ Strauss cho có cái đúng và cái sai, hẳn hoi, tức là không có sự mập mờ của chủ nghĩa tương đối về văn hóa, (“cultural relativism”).   D’Souza cho rằng học trò của Strauss hay dùng triết lí về “quyền thiên bẩm” (“natural rights”), tức là căn bản của các nhà hiền triết cổ đại để phân biệt chánh tà, để bảo vệ dân chủ thiên hướng tự do (“liberal democracy”) và giá trị đạo đức chống lại những kẻ thù trong cũng như ngoài nước.  Năm 1992, D’Souza viết “Những người theo Strauss có một sự rành rọt trí thức (intellectual rigor) rất hấp dẫn.  Họ cổ vũ cho ý niệm “chính khách” (statesman) và có ý kiến rằng các “ông hoàng” (prince) phải được quân sư cố vấn, như trong triết học Machiavelli và Aristotle.  Điều này là cần thiết, họ khẳng định, bởi lẽ “lãnh tụ” không phải bao giờ cũng là người khôn lanh nhất trên đời.”

 

Giới hạn của bài này không cho phép khai triển thêm về liên hệ giữa tân bảo thủ và các đại công ty của Mỹ (Halliburton của Cheney, vv), cũng như đối với chủ nghĩa toàn thống Thiên chúa giáo (“Christian fundamentalism”) (qua Bộ trưởng Tư pháp John Ashcroft và phe của ông).  Liên minh này có thể còn tiếp tục trong chính sách Mỹ đối với Syria, Iran, và có thể cả Saudi Arabia, nhưng khó đi xa hơn.  Đối với Trung Quốc chẳng hạn, yếu tố Israel sẽ trở nên ít quan trọng, và những áp lực kinh tế và ngoại giao khu vực sẽ mạnh hơn (mặc dù nhóm “Christian fundamentalists” cũng sẽ có ảnh hưởng lớn trong chính sách ngoại giao Mỹ đối với Trung Quốc)

 

9. Tân bảo thủ tự biện hộ

 

Để công bằng, thiết nghĩ cũng nên tường thuật cách tự bào chữa của nhóm tân bảo thủ (chống lại cáo buộc cho rằng chính phủ Bush hiện nay bị thao túng bởi một băng đảng trí thức hiếu chiến gốc Do Thái, trong lẫn ngoài chính quyền, chỉ nghĩ đến quyền lợi Israel)

 

Trả lời chỉ trích “dân Do Thái ở Mỹ chỉ muốn Mỹ xâm lăng Iraq vì lợi ích của Israel”, phe tân bảo thủ nhắc rằng có rất đông người Mỹ gốc Do Thái (ngay trong giới bình luận gia) chống chính sách Mỹ đối với Iraq.[45]  Đúng là như vậy, và còn có thể nói thêm là một phần đáng kể dân Israel cũng là yêu chuộng hoà bình, chấp nhận Palestine, cho xâm lăng là sai.  Tuy nhiên, người chỉ trích phái tân bảo thủ sẽ vạch rõ là phe này là phản ánh lập trường của thành phần Do Thái diều hâu cực hữu (ở Mỹ cũng như ở Israel), và đó mới chính là điều đáng nói.[46]

 

Đối với chỉ trích “chính quyền Bush bị phe hiếu chiến tân bảo thủ khuynh đảo”, những người tân bảo thủ trả lời: các cố vấn cao cấp nhất của Bush (như Cheney, Rumsfeld, Powell, Rice) đâu phải Do Thái, đâu phải ngây thơ, đâu phải không biết gì về quân sự, ngoại giao?  Không lẽ những người này cũng bị phe tân bảo thủ phỉnh gạt?

 

Để phản biện lời bào chữa này, có thể nói rằng, đúng thế, những người này không ngây thơ, song chính phe tân bảo thủ cho họ một chỗ dựa lí thuyết và hướng họ vào một lộ trình chính sách mà họ không nghĩ đến (dù không hẳn là ngược lại với con đuờng họ sẽ đi).  Lấy trường hợp Bush, ông ta là một người sẵn tính “du côn”, thù vặt, từ nhỏ đến lớn chỉ biết nương tựa thế lực gia đình.  Phe tân bảo thủ khích Bush bằng cách nhắc ông ta rằng Saddam Hussein là người định ám sát Bush cha, vô cùng nguy hiểm.  Còn với Rumsfield, Cheney thì họ sẽ bảo rằng đánh Iraq là việc phải làm để củng cố thế lực Mỹ, có lợi cho tư bản Mỹ (cụ thể là công ty của các ông ấy). 

 

Đối với chỉ trích “đây là một âm mưu bí mật của bọn diều hâu Do Thái, tân bảo thủ” [47] thì họ phân bua: “Chúng tôi đã viết sách, viết báo hàng chục năm nay công khai biện hộ cho lập trường này, nào có giấu giếm ai?”.  Cách phản biện này cũng không hoàn toàn đúng.  Thực sự, câu hỏi là: Chính quyền Bush có sòng phẳng với dân chúng về mục tiêu chiến tranh Iraq không? Nếu muốn xâm chiếm Iraq vì dầu hoả, hoặc vì quyền lợi Israel thì cứ công khai cho mọi người biết.  Cái giấu giếm phản dân chủ là cứ nói đánh Iraq bởi lẽ (a) Iraq có vũ khí giết người hàng loạt, (b) Hussein thông đồng hay ủng hộ khủng bố (cụ thể là Al Qaeda), (c) muốn giải phóng Iraq đang sống dưới chế độ độc tài khắc nghiệt.  Sở dĩ đa số người Mỹ ủng hộ chiến tranh là vì họ tin những sự lừa dối ấy. 

 

Phe tân bảo thủ[48] cũng khẳng định rằng chính sách Mỹ phải là nhằm phục vụ quyền lợi nước Mỹ, phe phái nào ở Mỹ cũng nhất quyết như vậy, không chỉ có nhóm tân bảo thủCó thể trả lời là đồng ý, song cách Mỹ bảo vệ quyền lợi đó hiện nay là thiếu khôn ngoan, làm mất lòng tất cả những quốc gia từng là đồng minh thân thiết của Mỹ, và phung phí thiện cảm mà hầu hết mọi người trên thế giới đã dành cho Mỹ sau vụ 11 tháng 9.

 

Một biến thể của lí luận này là quan điểm cho rằng chính sách đế quốc, thái độ đơn phương hành động của Mỹ không chỉ bắt đầu với Bush nhưng đã có từ Clinton (nhất là nhiệm kỳ 2) hoặc trước hơn nữa. [49] Tương tự, không phải chỉ đến khi Bush lên cầm quyền thì chính phủ Mỹ mới nói dối với công chúng.  Điều khác biệt là sự nói dối của Bush và nhóm tân bảo thủ được những người này xem như là một triết lí cần thiết của người lãnh đạo, như Leo Strauss đã dạy!

 

10.  Thay lời kết

 

Trở lại câu hỏi cơ bản mà bài này đặt ra: Có chăng một nhóm tân bảo thủ với những mưu đồ mờ ám đang thực sự lèo lái chính sách ngoại giao của chính phủ Bush hiện nay?  Câu trả lời khách quan cần trước hết vài điều tự cảnh giác. 

 

Một là, khuynh hướng tưởng tượng ra một “âm mưu bí mật” (conspiracy) nào đó đàng sau những sự cố khó giải thích là điều thường có trong những người đa nghi, lắm lúc thái quá.  Đối với nhiều người không ủng hộ Bush, sẵn cho là ông ta kém thông minh, hiểu biết, thì sự nghi ngờ có kẻ giựt dây Bush là dễ hiểu.  Song, kết luận khách quan khoa học đòi hỏi bằng chứng rõ ràng, xác thực, không chỉ là những tưởng tượng chủ quan. Hai là, như Fukuyama nhận xét (xem bài trên Times of London), những người tân bảo thủ (như Wolfowitz) không phải là nông cạn, hoặc cưỡng từ đoạt lý vì lợi ích cá nhân.

 

Đánh giá ảnh hưởng phe tân bảo thủ còn nhiều khó khăn khác. 

 

Một là, không phải mọi thành viên phe này đều đồng ý với nhau về mọi điểm.  Lấy trường hợp Leo Strauss và Alexandre Kojève.  Kojève, có phong thái lạc quan, nhiệt liệt ủng hộ các tổ chức quốc tế (như WTO), là thầy tinh thần của Francis Fukuyama (The End of History phần nào chỉ là phát triển lí thuyết của Kojève).  Fukuyama lại chịu thêm ảnh hưởng của Leo Strauss (qua Allan Bloom) về giá trị tuyệt đối của văn minh cổ đại La Hi.  Song Strauss và Kojève lại rất khác nhau (một người bi quan, một người lạc quan) và đã công khai bút chiến nhiều lần.  Vậy thì nên xem ai là tiêu biểu cho triết lí tân bảo thủ? 

 

Hai là, tư tưởng mỗi người cũng thiếu nhất quán.  Lại lấy Leo Strauss làm ví dụ: Có lúc thì ông chỉ trích thời Khai Sáng, có lúc thì ông lại xem đó như một thuở hoàng kim.  Gần đây hơn, Kagan và Kristol cũng thay đổi ý kiến từ bài này sang bài khác. 

 

ba là, nhiều người trong phe tân bảo thủ ít viết sách hoặc bài đăng báo (Wolfowitz chẳng hạn) nên cũng khó đoán biết lí luận của họ ra sao.

 

Thế thì tại sao nhóm tân bảo thủ lại có ảnh hưởng đến thế trong chính phủ Bush?  Đầu dây mối nhợ có thể chính là Dick Cheney Cheney là một người có tài ma-nớp chính trị thượng thừa (xem Mann (2004)), và nhìn lại thì tất cả những người tân bảo thủ đều có liên hệ trực tiếp đến ông ta vào lúc này hoặc lúc khác.  Chính Cheney đã tự đề cử mình ra ứng cử với Bush, và chính Cheney đã phụ trách việc bàn giao từ chính phủ Clinton sang chính phủ Bush.  Được gần như toàn quyền bổ nhiệm thành viên cho chính phủ Bush, Cheney đã bổ nhiệm Wolfowitz và Perle, rồi sau đó là Feith, Wurmser, Libby, Bolton, v.v. 

 

Một vấn đề liên hệ: đó là cuộc bầu cử năm 2000 đã cho nhiều bài học đáng tiếc về thể chế của Mỹ.  Cụ thể, nó cho Bush và đảng Cộng hòa thấy rằng dù thua phiếu vẩn có thể “thắng cử” nếu biết gian lận, nếu có nhiều luật sư dám chơi xấu, nếu có các quan tòa (kể cả tối cao pháp viện) thuộc phe mình, và nhất là nếu có các phương tiện truyền thông trong tay.

 

Phe tân bảo thủ cũng may mắn là họ “phất” đúng vào lúc mà sức mạnh của Mỹ là vô địch (nhất là với thế hệ “vũ khí khôn”) và quân đội Mỹ toàn là tình nguyện, do đó đa số dân Mỹ ít thấy những phiêu lưu quân sự của Mỹ có ảnh hưởng đến cá nhân và gia đình họ như trong những chiến tranh trước.  Lẽ dĩ nhiên là những cuộc phiêu lưu này sẽ có ảnh hưởng kinh tế không tốt, song chính quyền Bush nghĩ rằng họ có thể đổ lỗi này cho đảng đối lập.

 

Một nghịch lí trong thế giới quan tân bảo thủ là nó vừa “lý tưởng” lại vừa bi quan.  Họ “lý tưởng” ở chỗ tin rằng viễn ảnh nhân loại có thể tốt hơn, sáng sủa hơn, cụ thể là trong một mô thức tự do dân chủ (Fukuyama).  Do đó họ tin rằng Mỹ không nên ủng hộ những quốc gia độc tài.  Họ có nhiều điểm chung với những người phe tả từng là bạn của họ:  muốn tái tạo thế giới trong tinh thần Khai sáng, Dân chủ. 

 

Thật vậy, nhiều người (như John Gray) chỉ trích phái tân bảo thủ về cái nhìn “cách mạng lạc quan” (revolutionary optimism) ấy, tin rằng dân chủ đều có thể có ở mọi nơi, thậm chí có thể xảy ra rất nhanh (như những người tân bảo thủ có ảo mộng về dân chủ ở Iraq)

 

Song, mặt khác, trái với “cựu bảo thủ” ở Mỹ, tân bảo thủ lại bi quan về bản tính con người.  Đó là thế giới quan của những người tha huơng (diaspora), nạn nhân của những cuộc tàn sát diệt chủng (pogrom, Holocaust).   Họ là những người “Spartan”.  Hơn nữa, nếu không hẳn là kỳ thị chủng tộc, những người tân bảo thủ cũng có phần khinh rẻ những giống dân khác (nhất là Á Rập), cho rằng các nước này quá lạc hậu (ngay so với các nước kém phát triển khác, như ở châu Á chằng hạn) và Mỹ có thể đem văn minh đến các nước này và đồng thời bảo vệ an ninh cho Israel (xem Daniel Pipes, Martin Kramer và nhất là Bernard Lewis).  Sẽ quá đơn giản nếu cho rằng họ chỉ vì quyền lợi Israel, bất chấp quyền lợi của Mỹ.  Có thể là trong tiềm thức, đó là cái họ muốn, song đừng quyết đoán rằng đó là ý đồ của họ.

 

15 tháng 3 năm 2004

Trần Hữu Dũng

 


 

THAM KHẢO

 

Bacevich, Andrew J., 2003,  American Empire: The Realities and Consequences of US Diplomacy, Cambridge. MA: Harvard University Press.

Boot, Max, 2001, “The Case for American Empire,” Weekly Standard

Boot, Max, 2002, The Savage Wars of Peace: Small Wars and the Rise of American Power, NY: Basic Books, 2002,

Boot, Max, 2003,  “Washington needs a colonial office,” Financial Times, July 2.

Boot, Max, 2003, “Think Again: Neocons”, Foreign Policy, Jan-Feb.

Connelly, M., và Paul Kennedy, 1994, “Must It Be the Rest Against the West?,” Atlantic Monthly,  December, pp. 61-84.

Drew, Elizabeth, 2003, “The Neocons in Power,” New York Review of Book, June 12.

Drezner, Donald, 2003, “Et Tu, Kristol?”,  The New Republic, May 14

Drury, Shadia, 1988, The Political Ideas of Leo Strauss, NY: Macmillan

Drury, Shadia, 1999, Leo Strauss and the American Right

D'Souza, Dinesh, 2003, “ The Power of Virtue,” Washington Post July 4

Ferguson, Niall, Empire: The Rise and Demise of the British World Order and the Lessons for Global Power, NY: Basic Books

Fukuyama, F, The End of History?

Fukuyama, F., 2002, “Has History Started Again?,” Policy, Winter.

Heer, Jeet, 2003, “The Philosopher,” Boston Globe, March 11

Judis, John, 2003, “What Woodrow Wilson can teach today's imperialists,” The New Republic, May 31

Kagan, Robert, 2003, Of Paradise And Power, America and Europe In the New World Order,  NY: Knopf.

Kennedy, Paul, 1988, The Rise and Fall of the Great Powers: Economic Change and Military Conflict, 1500-2000, NY: Random House

Kennedy, Paul, 1993, Preparing for The Twenty-First Century, NY: Random House

Kikutani, M., 2003, “How Books Have Shaped U.S. Policy,” New York Times April 5

Kristol, William, and Robert Kagan, 1996, “Toward a Neo-Reaganite Foreign Policy,” Foreign Affairs

Lal, Deepak, 2002, In Defense of Empires, Washington D.C.: American Enterprise Institute

Lenzner, Steven, và William Kristol, 2003, “What was Leo Strauss up to?”, tr 19-39, Public Interest, Fall

Mandelbaum, Michael, 2002, Peace, Democracy, and Free Markets in the Twenty-First Century, NY: Public Affairs

Mann, James, 2004, Rise of the Vulcans, NY: Viking

Marshall, Joshua M., 2003, “Practice to Deceive,” Washington Monthly, April

Prestowitz, Clyde, 2003, Rogue Nation: American Unilateralism and the Failure of Good Intentions, NY: Basic Books

Schell, Jonathan, 2003, The Unconquerable World: Power, Nonviolence, and the Will of the People, NY: Metropolitan

Urquhart, Brian, 2003, “World Order & Mr. Bush,” New York Review of Book¸ October 3

Swidey, Neil, 2003, “The Analyst,” Boston Globe¸May 18

 


 

[1]Phiên bản đầu tiên của bài này đã được đọc tại Hội Thảo Mùa Hè, Munich 24-26 tháng 7, 2003.  Tác giả xin cám ơn Vũ Quang Việt và Cao Huy Thuần đã góp nhiều ý kiến hữu ích trong lần hiệu đính này.  Mọi lỗi lầm, sơ sót còn lại hoàn toàn là trách nhiệm người viết.

[2] Department of Economics, Wright State University, Dayton, OH 45435, USA.

[3]Có người cho rằng Bush được chức tổng thống chỉ vì hơn chỉ một phiếu ở Tối cao Pháp viện Mỹ.

[4]Trường hợp ngoại lệ là Cheney, Rumsfeld, và chính Bush.  Song những người này không là tân bảo thủ thật sự, như sẽ nói dưới đây.

[5]Thương nghị sĩ Henry Jackson, đảng Dân chủ Mỹ, là người cực lực chống lại chính sách hoà giản với Liên Xô.  Cha của ông là một thành viên đắc lực của phong trào công đoàn, và ông là phái tả chống cộng từ giai cấp công nhân (working-class left).  Ông chủ trương Mỹ phải luôn luôn đi trước trong cuộc chạy đua vũ khí với Liên Xô, ủng hộ chiến tranh Việt Nam, và làm áp lực Liên Xô cho dân Nga gốc Do Thái được di cư.

[6]Sự ủng hộ này tương đối còn “ôn hoà” trước năm 1993, nhưng sau thỏa hiệp Oslo vào năm ấy thì sự ủng hộ này nghiêng hẳn về phe cực hữu Likud -- từ chính phủ Benjamin Netanyahu đến Ariel Sharon ngày nay.

[7]Thật ra, phát giác này không là mới.  Năm 1987 (khi Reagan còn làm tổng thồng) tuần báo Newsweek đã có bài “The cult of Leo Strauss”.

[8]Harrington là tác giả quyển The Other America (mô tả sống động tình trạng nghèo khỗ ở vùng Appalachia ở Mỹ) rất có ảnh hưởng đối với chính sách “xoá đói giảm nghèo” của chính quyền Kennedy.

[9] Ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa năm 1964, thua đậm Lyndon Johnson.

[10]Quen thân với Alexandre Kojève lúc này.  Kojève là triết gia có ảnh hưởng trực tiếp đến Francis Fukuyama, như sẽ nói sau đây.

[11]“Cộng hoà Weimar” là tên gọi các chính phủ dân chủ ở Đức trong khoảng thời gian giữa khi vua Kaiser Wilhem II thoái vị và Hitler lên cầm quyền năm 1933.  Chính phủ Weimar không được nhiều ủng hộ của dân chúng vì họ chấp nhận những điều khoản ngặt nghèo mà Thỏa ước Versailles đã áp đặt lên nước Đúc (những bồi thường nặng nề mà Đức phải trả, gây nên xáo trộn kinh tế và sự mất giá của đồng Đức Mã).  Song thời kỳ này cũng đánh dấu tự do chính trị và sáng tạo trong lãnh vực văn hoá.  Những điều này chấm dứt khi Hitler lên cầm quyền.

[12]Âm hưởng của chủ thuyết này là rõ rệt nhất ở Victor David Hanson, guru của Dick Cheney, sau này. Song Hanson cũng có ý khinh miệt những người tân bảo thủ tháp ngà như Leo Strauss và đồ đệ.

[13]“You are either with us or against us!”

[14]Như David Frum hoặc Mark Steyn, là dân Canada.

[15]Nên để ý Wohlstetter đề nghị đem máy bay thả bom của Mỹ ra xa chiến trường, che giấu vững chắc, kĩ lưỡng, để có thể trả đũa (chủ thuyết này sẽ được Wolfowitz áp dụng gần đây ở bán đảo Triều Tiên)

[16]Tập họp của nhiều chính khách Iraq lưu vong, thường gọc tắt là INC.

[17]Đặc biệt là vợ ông, Roberta Wolfstetter, cũng là một sử gia quân sự có tiếng, tác giả “Pearl Harbor: Warning and Decision,” một nghiên cứu về sự thất bại của tình báo.

[18]Wolfowitz không học trực tiếp với Strauss, chỉ biết Strauss qua Allan Bloom.

[19]Wolfowitz và Shulsky cùng viết luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của Wohlstetter, và cùng ra trường năm 1972.

[20]Gary Schmitt là giám đốc điều hành của The New American Century,  một nhóm chuyên gia ngoại giao nhiều ảnh hưởng, do William Kristol sáng lập.

[21]Trong bài này, hai ông cho rằng nhân cách Leo Strauss có nhiều nét giống George Smiley trong các truyện gián điệp của John le Carré!

[22]Defense Intelligence Agency: Bộ phận tình báo của Bộ Quốc Phòng Mỹ.

[23]Irving Kristol là cha của William Kristol, xem Đoạn 6 dưới đây

[24]“A Clean Break: A New Strategy for Securing the Realm”

[25]Cố vấn An ninh Quốc gia dưới thời Bush cha, thường được xem là phe Kissinger. 

[26]Ngoại trưởng thời Bush cha. Sau khi Clinton lên, Shultz trở ra khu vực tư, làm một thành viên hội đồng quản trị của đại công ty Bechtel.

[27]Thượng nghị sĩ cực hữu, bang North Carolina, từ 1972 đến 2002.

[28]Tưởng cũng nên nói thêm là ba người dính líu đến vụ chính quyền Bush làm áp lực CIA (vụ uranium, v..v..)  là Stephen Hadley (người của Cheney, phụ tá cho Rice), Scooty Libby (chánh văn phòng của Cheney), và John Bolton.

[29]Feith hiện giữ chức vụ mà Wolfowitz đã giữ trong thời Bush cha

[30]“Tyranny's Ally: America's Failure to Defeat Saddam Hussein”

[31]Vì Kristol ủng hộ McCain chống Bush, ông ta than phiền là không được “welcome” ở Nhà Trắng.

[32] Vợ của Kagan là Victoria Nuland, hiện là đại diện cho Dick Cheney trong Hội đồng An ninh Quốc gia của Mỹ

[33]“Toward Neo-Reaganite Foreign Policy”

[34] Trong một cuộc phỏng vấn (xem bài của Emily Eakins trong New York Times), Kagan nói: “It's very American for us to try to replicate our systems to the best of our ability," và "We didn't go to war against Japan with the intention of building a democracy there, but we couldn't imagine not building a democracy once we went in.”

[35]Gần đây, Fareed Zakaria (người Mỹ gốc Ấn Độ) cũng đã gián tiếp biện hộ cho lập trường này.  Zakaria cho rằng dân chủ là không quan trọng bằng một hệ thống luật pháp bảo đảm quyển lợi của con nguời.  Như vậy thì, tuy không nói ra, Zakaria cho rằng hệ thống luật pháp này có thể được áp đặt trái nguyện vọng của đa số.  Tiếp tục suy diễn lí luận của ông ta: luật pháp là cần hơn dân chủ, thì làm thuộc địa có khi còn tốt hơn độc lập.  Lẽ dĩ nhiên Zakaria chối là không (như D’Souza) có ý biện hộ cho chế độ thuộc địa, nhưng trong mắt người đọc, không thể có cái cảm tưởng rằng theo ông ta, loại “thực dân tốt” (như Anh đối với Ấn Độ) có khi đáng có hơn là “dân chủ xấu”. Phản ứng của phe tân bảo thủ (cụ thể là Robert Kagan và Joshua Muravchik) đối với Fareed Zakaria cũng là đáng để ý. Chẳng những không đồng ý với Zakaria, Kagan còn cho rằng Zakaria “phản dân chủ”. Song có lẽ lí do chính khiến Kagan không thích Zakaria là vì Zakaria chỉ trích dân chủ kiểu Mỹ và tán tụng EU.  Một điều nữa là, nếu theo luận điệu của Zakaria thì Mỹ không còn lí do gì để gieo” dân chủ” đến các nuớc khác: chế độ “không dân chủ” ở các nuớc khác lắm lúc lại tốt hơn!  Tuy nhiên, David Frum lại hoàn toàn tán đồng Zakaria trong National Review (June 1, 2003)

[36] “Paradise and Power” đã được so sánh với Fukuyama (1989), Samuel Huntington (1993), và George Kennan (1947).

[37]“The Savage Wars of Peace: Small Wars and the Rise of American Power”

[38]Cohen cho là Rumsfeld có những đức tính này, song Bush cha không hội đủ (và đã không chiến thắng hoàn toàn chiến tranh thứ nhất ở vùng Vịnh).

[39]“Sự Đóng kín của Đầu óc Mỹ”

[40]Trong Ravelstein, Saul Bellow mô tả cảnh hai nhân vật (phỏng theo) Wolfowitz and Bloom đối thoại về Desert Storm như sau: "And it was essential to fit up-to-the-minute decisions in the gulf war — made by obviously limited pols like Bush and Baker" ... "into a true-as-possible picture of the forces at work — into the political history of this civilization.”

[41] Tạm dịch là “tính ưu tú”, theo đó giáo dục (nhất là giáo dục cao đẳng) không phải dành cho mọi người mà chỉ cho thành phần ưu tú trong xã hội.

[42]Vợ của Dick Cheney và cũng là một trí thức nổi tiếng, làm chủ tịch National Endowment for the Humanities thời Reagan.

[43]“Enfant terrible”, tiếng người Pháp hay dùng.

[44]Một điều thú vị là một số người năng nổ nhất trong vấn đề này lại là những người mới nhập cư, như D’Souza, Zakaria.  Quả là “bảo hoàng hơn vua!”

[45]Nổi bật nhóm tạp chí Tikkun của mục sư Michael Warner

[46]Cũng có thể nói thêm là một số thành viên quan trọng của phe tân bảo thủ không là Do Thái (William Bennett, Victor Davis Hanson, John Bolton).

[47]Xem, chẳng hạn, Joshua Micah Marshall (2003)

[48]Đặc biệt là Ramesh Ponnuru (cũng là một người Mỹ gốc Ấn), cộng tác viên của tuần báo National Review.

[49]Xem Andrew Bacevich (2003)

© 2004 Thời Đại Mới

Trở lại Mục Lục Thời Đại Mới