Số 13 - Tháng 3/2008
Lao động có kỹ năng: Hồng Lê Thọ
Phần 1: Từ con số điển hình ở Đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL) Trong báo cáo về “Nguồn nhân lực ở Đồng bằng sông Cửu Long” (tháng 1/2005) của nhóm nghiên cứu do GS Võ Tòng Xuân làm trưởng đã công bố trên cơ sở những số liệu của Tổng cục Thống kê và khảo sát tại chỗ các tỉnh, kết luận rằng “nguồn nhân lực ở vùng nầy tương đối thấp, tỷ lệ mù chữ là 6%, 33% không học hết tiểu học; 14% tốt nghiệp bậc tiểu học là cấp học bắt buộc theo hiến pháp; 8% tốt nghiệp trung học cơ sở. Như thế, 77% đội ngũ lao động có trình độ học vấn căn bản (trung học cơ sở) trở xuống (!) và 83% lực lượng lao động không được đào tạo tay nghề” (xem Hộp 1 và 2). Chính con số nầy cho thấy đó một trong những yếu tố cản trở sự phát triển của nền kinh tế địa phương cũng như gây lo ngại đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đặt chân đến làm ăn. Có người gọi đó là một trong “nút thắt” ngăn chặn dòng chảy của vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) về các địa phương.
Khảo sát từ khu vực trù phú về nông thủy hải sản đã đưa ra những con số đáng báo động như vậy. Nếu khảo sát tại vùng nghèo khác như cao nguyên trung bộ, đồng bằng miền Trung hay vùng cao các tỉnh phía Bắc, e rằng kết quả còn bi đát đến nhường nào. Tại các địa phương khác cũng không mấy sáng sủa hơn, mặc dù mỗi tỉnh đều có chủ trương dạy nghề để xóa đói giảm nghèo. Số người lao động trẻ (tuổi từ 15-30) ở nông thôn các địa phương ngày càng đổ dồn về các tỉnh thành có khu công nghiệp, chế xuất như TP.HCM, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Dương… ngày càng nhiều, tương tự như hiện tượng “bỏ nông” và “ly thôn” ở các tỉnh nghèo phía bắc. Dân số ở các đô thị phát triển tăng đột biến, người di dân sang vùng dễ kiếm công ăn việc làm đang là vấn đề xã hội, kinh tế nghiêm trọng khi sự phân bố về lao động, nghề nghiệp trong cả nước mất cân đối như hiện nay (xem Hộp 3 về trường hợp yêu cầu lao động ở TP.HCM đến năm 2010)
Trong 3 năm nay, tính từ năm 2005, kim ngạch đăng ký đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) từ tốc độ dưới 2 tỷ đô la Mỹ vào năm 2005, đã vọt lên hơn 4 tỷ đô la năm 2006 và tăng cao hơn nhiều sau khi Việt Nam gia nhập WTO[1]. Tương tự, kim ngạch xuất hoặc nhập khẩu ở mức 50-60 tỷ, với tổng số đã vượt hơn 110 tỷ, lớn gần gấp đôi GDP. Tăng trưởng GDP cũng có tốc độ tăng 8-8,5 % bình quân trên cả nước. Những điều đó cho thấy yêu cầu lao động của những doanh nghiệp và công ty nước ngoài sẽ không còn dừng lại ở mức phổ thông (thô), mà ngày càng đòi hỏi một lực lượng lao động có tay nghề chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản. Mặt khác, nhờ có chủ trương xuất khẩu lao động của chính phủ cho nên trong 5 năm gần đây, số người trẻ đi lao động ở nước ngoài ngày càng tăng nhanh chóng, năm 2006 đã đạt mức 74.800 người/ năm (riêng năm 2007 là 85.020 người) với tổng số khoảng 400,000-500.000 công nhân Việt nam đang có mặt ở các nước.[2] Nhưng nhìn vào cơ cấu, thành phần thì 90% số ấy lại là lao động giản đơn (lao công, phụ hồ, tạp dịch, giúp việc trong nhà…) xuất thân từ những tỉnh nghèo chứ không phải những người có kỹ năng như hàn, mộc, đúc, tiện, cơ khí… được ưu đãi và hưởng lương gấp 5-10 lần tùy theo nghề và nước họ đến.
Từ những thực tế nầy vấn đề lớn đang đặt ra cho nước ta là sớm có biện pháp đột phá để giải quyết nhằm đem lại lợi ích và duy trì phát triển ở tốc độ cao, cân đối lực lượng lao động giữa nông thôn và thành thị, nhằm từng bước “đô thị hóa” trải đều trên cả nước thay vì chỉ tập trung vào một hai thành phố, và ngăn chận hiện tượng “sa mạc hóa” nông thôn như nguy cơ hiện nay mà làng An Bằng ở Huế (xem báo Pháp luật TPHCM ngày 19/12/2007) không phải là trường hợp duy nhất. Một số làng ở Tỉnh Hải Dương đa số chỉ còn người già và con trẻ là hiện tượng đáng lưu ý. Cần đổi tư duy dạy nghề Như đã nói trên, điều cơ bản là xem xét lại chủ trương “dạy nghề” hiện nay ở địa phương, đặc biệt tại các tỉnh nghèo ở miền Bắc. Mục đích của chương trình hiện nay là “xóa đói giảm nghèo”, tạo công ăn việc làm cho những nông dân trong thời gian nông nhàn, cải thiện cuộc sống thiếu thốn của người dân không có nghề nghiệp chứ không phải nhằm mục đích phát triển kinh tế. Nói khác đi là việc dạy nghề cho những người nầy nằm ngoài những chính sách phát triển, chiến lược chuyển đổi cơ cấu công-nông nghiệp của địa phương, nhằm nâng cao sức sản xuất. Chính vì vậy, việc dạy nghề này không đủ hấp dẫn và không đảm bảo để họ trở thành một lực lượng công nhân hay nông nhân có tay nghề, kỹ năng mà nhà đầu tư hay doanh nghiệp mong đợi. Cho nên hầu hết các chương trình dạy nghề nhằm mục đích “xóa đói giảm nghèo” ở nông thôn đều là những chương trình ngắn hạn, chắp vá “được chăng hay chớ”, hầu hết là những chương trình dạy nghề ngắn hạn từ 2 tuần đến 1 tháng, thời gian chỉ đủ làm quen với một nghề nào đó vì vậy không lôi kéo được thanh niên, hay giữ chân được lực lượng lao động này ở lại nông thôn vì cuộc sống khó khăn.[3] Theo một báo cáo khác của đại học An Giang năm 2005[4] hơn 83% người nghèo ở thị xã Long Xuyên đều không có nghề cố định, làm phu bốc vác, phụ hồ, lơ xe vận tải hay lao động theo thời vụ, không ổn định… đây là một trong những lí do giải thích tại sao số người ở tuổi lao động sung sức bỏ thôn làng lên thành phố. Vì thế, việc đào tạo nghề ở nông thôn (thuộc ĐBSCL) cần phải được xem lại cho phù hợp với những chính sách phát triển nông-công nghiệp-thủy hải sản trong ít nhất là một thập kỷ tới. Cần có trường dạy nghề khuyến nông-ngư nghiệp-cây trồng và công nghiệp chế biến (nông-thủy-hải sản), chăn nuôi và các ngành công nghiệp nhẹ khác tùy theo từng tỉnh và địa phương cụ thể. Đây chính đây là cái nôi đào tạo những chuyên gia có tay nghề cao cho từng ngành để phát huy thế mạnh trên mảnh đất đó. Một trong những kinh nghiệm quí về đào tạo nguồn nhân lực mà các nhà làm chính sách có thể tham khảo là ở Nhật Bản. Tiền thân của đại học Tơ sợi Kyoto (Kyoto University Of Textile) ngày nay xuất phát từ trường trung cấp kỹ thuật dạy nghề dệt, hay đại học Gunma (phía bắc Kanto thuộc tỉnh Saitama) phát xuất từ trường dạy trồng dâu nuôi tằm, là thế mạnh truyền thống của tỉnh Gunma từ thời Minh Trị Duy Tân. Không những các trường kỹ thuật, thực nghiệp của nhà nước, mà ngay trường đại học tư nổi tiếng như Đại học Waseda (Tokyo) ngày nay cũng phát xuất từ trường Tokyo Senmon Gakko (Trường Chuyên môn Tokyo) thành lập năm 1882 đến năm 1920 mới chính thức được công nhận là đại học. Những trường hợp tương tự như vậy rất phổ biến trong quá trình hình thành hệ thống giáo dục đại học của Nhật Bản ngày nay. Đây là nhân tố thúc đẩy phát triển các ngành công-nông nghiệp, thương nghiệp… trong lộ trình hiện đại hoá (trong tiếng Nhật, họ dùng chữ “cận đại hoá”) từ những năm cuối thế kỷ 19: Dựa vào lực lượng lao động được đào tạo chính qui từ thấp lên cao trong một hệ thống dạy nghề (thực nghiệp, trung cấp kĩ thuật, cán sự và chuyên tu) hoàn chỉnh. Tỉnh nào mạnh ngành gì thì ưu tiên xây dựng trường kĩ thuật dạy nghề cho ngành đó và không có hiện tượng trường dạy nghề tràn lan mạnh ai nấy làm như ở ta. Xem thêm bài “Giáo dục dạy nghề ở Nhật bản: chìa khóa đi vào hiện đại hóa”. Kinh nghiệm trong việc tạo lực lượng lao động thích hợp, có chọn lựa để đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương của Nhật bản phải chăng là bài học quí báu mà ta nên tiếp thu, tránh chạy đua nơi nào cũng có trường, lớp dạy nghề tràn lan mà không có chất lượng và na ná bắt chước nhau để thu hút học sinh mà thôi. Phần 2: Tổ chức lại hệ thống dạy nghề Trên cơ sở của Luật Dạy Nghề vừa mới thông qua vào tháng 6 năm 2007, dựa theo kinh nghiệm nhiều năm của Nhật bản, có thể gợi ý một mô hình đào tạo nghề chia làm 3 cấp như sau: “Trung học thực nghiệp” cho những em tốt nghiệp Tiểu học với chương trình học nghề cụ thể trong 2 năm và 1 năm thực tập để đào tạo công nhân kỹ thuật; “Trung học kỹ thuật” hay “Trung học Chuyên nghiệp” dành cho những em tốt nghiệp trung học cơ sở (cấp 2) với thời gian đào tạo 3 năm có nội dung chuyên sâu hơn phù hợp với trình độ văn hóa để có lớp công nhân bậc trung; “Cao đẳng Kỹ thuật” dành cho các em tốt nghiệp trung học phổ thông (cấp 3) có chương trình 3-5 năm nhằm tạo ra Cán sự, chuyên viên đủ khả năng quản lý, chủ nhiệm các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ. Thiết nghĩ với qui mô từ nhỏ (khoảng 1000-2000 em/trường) đến vừa, có số lượng 5.000-10.000 em một trường, chỉ sau 5 năm đầu tiên chúng ta đã có một lực lượng công nhân có kỹ năng đáng kể như đã nói ở trên để đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh. Nếu bài toán này được áp dụng khắp 64 tỉnh thành trên cả nước và có nguồn ngân sách đảm bảo kề cả những chính sách cho vay để học, khuyến khích việc lập trường tư thục dạy nghề, ngoài những cơ sở đào tạo công hay bán công… thì triển vọng phát triển với nguồn nhân lực dồi dào là điều hoàn toàn khả thi, không những thế, còn góp phần xuất khẩu lao động có kỹ năng cao hơn. Hiện nay tỷ lệ ngân sách giáo dục dành cho dạy nghề và trung cấp chuyên nghiệp là 6,05% (1.910 tỷ đồng năm 2006).[5] Theo Phó Thủ tướng – Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân mới công bố gần đây, trong tương lai 10-12% ngân sách Giáo dục của nhà nước (tương đương với 7000-7500 tỷ đồng/năm) có thể sẽ được phân bổ dành cho việc dạy nghề[6] và vào ngày 10/1/2008 Chính phủ đã chính thức phê duyệt một ngân sách 20,000 tỷ đồng cho 7 chương trình giáo dục và dạy nghề.[7] Hơn thế nữa, mới đây lại nổi lên đề xuất của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM, với số tiền 16.000 tỷ đồng (một tỷ USD!).[8] Đây là đề án nhằm đào tạo nghề cho thanh niên. Số tiền khổng lồ này sẽ có ý nghĩa hơn nếu được dùng vào việc xây dựng cơ sở, trường đào tạo nghề thay vì giao phó cho Trung ương Đoàn (là một tổ chức chính trị xã hội chuyên làm phong trào) đứng ra “tác nghiệp” ở một lĩnh vực ngoài tầm tay của mình, không có kinh nghiệm và nghiệp vụ chuyên môn. Thiết nghĩ việc chi 16.000 tỷ đồng chỉ để cho vay tài chính (qua việc kết hợp với qua ngân hàng), vận động học nghề và hỗ trợ giới thiệu việc làm… cho thanh niên (đoàn viên) như bản dự thảo đề án thì có quá “xa xỉ”? Dư luận cho rằng, đây chỉ là động thái nhằm tạo uy thế và củng cố vai trò của một đoàn thể quần chúng thuộc hệ thống của Đảng đang ngày càng mờ nhạt? Điều quan trọng hơn cả là hệ thống dạy nghề của chúng ta hiện nay nên để cho Tổng cục dạy nghề quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương, thay vì phân tán quyền qua Sở Lao động-Thương Binh-Xã hội như lâu nay mang trách nhiệm dạy nghề để xóa đói giảm nghèo hay để giúp những người phạm pháp “phục hồi nhân phẩm”(!). Mặt khác, việc huy động vay vốn ODA, hợp tác với những cơ quan quốc tế như ILO, UNIDO, UNESCO… và những tổ chức dạy nghề ở các nước phát triển để nâng cao chất lượng, thiết bị dạy nghề là điều có thể thực hiện dễ dàng. Song bấy lâu nay, công tác đối ngoại này còn ở mức “ai cho gì làm nấy”. Chẳng hạn như các dự án dạy nghề được tài trợ bởi chính phủ Đức, Na-uy, Singapore, Hàn quốc hay vài tổ chức dân sự của Nhật bản tại một số địa phương… đã không tạo nên một chiến lược tổng thể phát triển lâu dài và có hệ thống. Một thí dụ cụ thể là trường hợp dự án Dung Quất xây dựng com-bi-nat về hóa dầu đã bị chựng lại, trục trặc vì nhiều lí do. Trong đó, một vấn đề đáng lưu ý là nhà thầu kỹ thuật Pháp Technip khi bắt tay vào lắp đặt trang thiết bị thì “té ngửa” ra rằng, tìm người thợ hàn bậc cao tại chỗ đủ khả năng hàn cao áp không dễ . Một mặt họ huy động thợ hàn Malaysia, Thái Lan sang làm chuyên gia để đảm bảo tiến độ, mặt khác chi viện ngân sách gần một triệu đô la để tỉnh Quãng Ngãi lập cơ sở đào tạo 4.000 thợ hàn cho công trình. Điều nầy cho thấy, khả năng đáp ứng thợ chuyên nghiệp cho những chương trình trọng điểm phát triển kinh tế của chúng ta còn quá yếu và ngày càng lộ rõ trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa từ nay cho đến năm 2020 theo chủ trương của nhà nước. Nhiều nhà đầu tư Nhật hăm hở sang Việt Nam với nhiều kì vọng, trong đó họ từng đánh giá công nhân của ta rất ‘tinh xảo”, “khéo tay” nhưng khi bước vào thực hiện đề án lại phải thuê công nhân từ các nước láng giềng, kể cả từ các tỉnh Quảng Đông, Thẩm Quyến… sang vì không tìm ra lực lượng tại chỗ có thể đảm trách (xem Hộp 5). Có những công ty Nhật Bản yêu cầu số lượng rất lớn, chẳng hạn gần đây, hãng lắp ráp linh kiện điện tử của Nhật bản NIDEC cần tuyển 20.000 công nhân cho nhà máy lắp ráp nhưng đành bó tay khi thị trường cung ứng lao động quá hạn chế.[9] Ngày 28/8/2007 Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã nêu lên trường hợp một công ty Đài Loan mở hai nhà máy tại Bắc Giang và Bắc Ninh, với nhu cầu trên 300.000 kỹ sư cùng thợ chuyên nghiệp, mà Việt Nam không thể cung ứng. Hãng này đã phải quyết định huấn luyện chuyên viên của họ ở nước ngoài.[10] Liệu khả năng cung ứng 100.000 lao động cho Qatar vừa mới kí kết vào đầu tháng 1/2008 có thực hiện được không? Lao động cho dự án 1 tỷ USD của tập đoàn Intel ở Thành phố HCM hay 5 tỷ của Foxcom vào tỉnh Phú yên sẽ ra sao?
Lời Kết Liệu mục tiêu mà chính phủ chủ trương hiện nay là đến năm 2010 có 50% lao động ở nước ta được học nghề tử tế, có thực hiện được không nếu không có những quyết sách về đào tạo nguồn nhân lực thỏa đáng? Trong thời kỳ huy động tích cực nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ bên ngoài để tăng tốc phát triển, vấn đề cơ sở hạ tầng như điện lực, thông tin, bến cảng, giao thông, cầu đường, sân bay… đòi hỏi phải được nhanh chóng hoàn thiện và mở rộng hơn nữa để đáp ứng nhu cầu của các phương án đề xuất. Nguồn nhân lực, lao động có kỹ năng cũng được các nhà đầu tư xem như là nút cổ chai quyết định tính khả thi của dự án, cho nên việc đào tạo nghề, kỹ năng cho thanh niên, lao động nông thôn vô cùng cấp bách trong tình hình hiện nay, khi mà cac dự án đầu tư nước ngoài có xu hướng (hay được phân bổ) về địa phương. Thật vậy, số dự án và kim ngạch đầu tư trực tiếp tăng lên đáng kể trong hai năm 2006 - 2007 và có khuynh hướng lan tỏa ra các địa phương[11] mặc dù Ông Phan hữu Thắng, Cục trưởng cục quản lý đầu tư nhận định “vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và triển vọng của các địa phương cũng như cơ hội thu hút FDI hiện có. Nhiều đối tác tiềm năng từ các nước và vùng lãnh thổ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ðài Loan, Hoa Kỳ, khu vực Trung Ðông... đã đến Việt Nam và đang tìm hiểu tại các địa phương với nhiều dự án lớn. Ðiều quan trọng là các địa phương đã chuẩn bị đón nhận những dự án này như thế nào. Số vốn FDI chuẩn bị đổ vào Việt Nam là rất lớn nhưng thực tế, khả năng hấp thụ nguồn vốn này đến đâu trong khi cơ sở hạ tầng của nước ta (điện, cấp thoát nước, giao thông, vận tải...) hiện chưa phát triển theo kịp nhu cầu của các nhà đầu tư. Hơn nữa, tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ cao, lao động có tay nghề sẽ ảnh hưởng tiến độ triển khai nhiều dự án. Ðây chính là một trong những khó khăn, thách thức lớn trong thu hút FDI giai đoạn tới” (Tlđd) Nhóm nghiên cứu của GS Võ Tòng Xuân đưa ra lời cảnh báo rằng: “Phần lớn các doanh nghiệp (ở ĐBSCL) được phỏng vấn cho rằng, cần có sự thay đổi trong chính sách giáo dục và đầu tư của Việt Nam, nhằm cải thiện nguồn nhân lực trong tương lai”.(Tlđd) Điều đáng ngạc nhiên hơn, có hiện tượng “nhiều hộ gia đình, nhất là các hộ nông nghiệp nhận định rằng, học vấn không có tác dụng tích cực trực tiếp đến cơ hội việc làm trong tương lai của con em họ. Gia đình không sẵn sàng hỗ trợ con em mình đi học khi chi phí cơ hội của việc đi học được xem là cao (vì trẻ em độ tuổi 10-14 có thể cung cấp lao động đáng kể)”. Đây là lý do chính khiến tỉ tệ trẻ em không tốt nghiệp bậc tiểu học ở ĐBSCL cao nhất so với cả nước. Báo Đại Đoàn Kết ngày 12/1/2008 đưa tin khi hai trường mẫu giáo ở tỉnh Sóc Trăng tăng học phí từ 25.000 đồng/tháng lên 250.000 đồng/tháng (gấp 10 lần) theo chủ trương “xã hội hoá”, 50% đã bỏ học và cô giáo tại trường này cũng phải cho con ở nhà. Bộ Giáo Dục và Đào tạo nghĩ sao về sự kiện đáng tham khảo này khi chủ trương thực hiện tăng học phí và tích cực “xã hội hóa” giáo dục trong những năm tới. Vấn đề chính đặt ra là cần thoát khỏi tư duy xem thường việc dạy nghề trong nền giáo dục phổ thông, dừng lại ở nhận thức “xoá đói giảm nghèo” không hiệu quả mà đặt mục tiêu dạy nghề là trang bị và sửa soạn cho thanh niên có tay nghề vững, mà nền kinh tế đang phát triển đòi hỏi. Khi thanh niên nhận thức được là giáo dục dạy nghề sẽ đưa đến công ăn việc làm và thu nhập cao họ sẽ không thấy chuyện đi học là phù phiếm và tốn kém. Ông Kotaro Uchiyama, tổng giám đốc công ty TNHH Stanley (Nhật bản) cho rằng “Việt Nam cần phải rà soát, bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề đáp ứng nhu cầu lao động có nghề cho các doanh nghiệp FDI, trong đó khuyến khích thành lập cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp FDI, nhất là trong doanh nghiệp có quy mô sử dụng lao động lớn”. [12] Điều nầy cho thấy nếu không giải đáp được yêu cầu lao động có kỹ năng thì làm sao có thể hấp thu đầu tư nước ngoài trong những lĩnh vực công nghệ cao, thay vì chỉ có công nhân là thợ gia công giản đơn. Thiết nghĩ đây chính là bài toán cần được giải đáp càng sớm càng tốt nhằm đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế một cách bền vững. Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gần đây cũng đã xác nhận: “Tôi còn đang rất lo lắng về nguồn nhân lực khi mà các tập đoàn công nghệ cao cứ vào liên tục: Intel, Samsung rồi Hồng Hải đầu tư 5-7 tỷ USD, họ yêu cầu ta cung cấp 50.000 lao động có đào tạo lấy đâu? ”)[13]mở ra một khả năng thực tế là ngày càng có nhiều chuyên gia kỹ thuật nước ngoài vào thị trường lao động trong nước như khuyến cáo của ông Quentin Dupriez của UNTAC trong cuộc họp ngày 18/12/2007 tại Hà nội.[14]
3/2008
[1] Xem Thống kê đầu tư trực nước ngoài được cấp giấy phép (chỉ kể phần đóng góp của đối tác nước ngoài) trên mạng của Tổng cục Thống kê: http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=392&idmid=3&ItemID=6211. [2] http://vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id=928b483be21fcf http://www.ttvl.com/apm/modules.php?name=News&file=article&sid=4907
[3] Xem thêm một số bài viết về thực trạng dạy nghề: http://www.molisa.gov.vn/frmdocchitiet.asp?mbien1=01&mbien2=103&mbien3=11319 http://www.vnchannel.net/news/3-xa-hoi/200710/27666-80-lao-dong-chua-duoc-dao-tao- nghe.html http://www.molisa.gov.vn/frmdocchitiet.asp?mbien1=01&mbien2=103&mbien3=10643 http://www.cpv.org.vn/details.asp?id=BT2760751846 [4] (3)”Thực trạng xóa đói giảm nghèo tại thành phố Long Xuyên, An Giang”(Huỳnh thị Sương, đại học An Giang 5/2006) [5] Bộ GD-ĐT, Giáo dục Việt Nam Đầu tư và cơ cấu tài chính, Hà Nội tháng 10 năm 2007, Bảng 3.5. [6] Tại hội nghị “Dạy nghề trình độ cao đẳng năm 2007” vào ngày 7/9/2007 Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân cho biêt sẽ ưu tiên dành 1 tỷ USD cho học sinh,thanh niên vay vốn học nghề, lập nghiệp(Thanh nien online) và hppt://www.nld.com.vn/tintuc/viec-lam/217092.asp.
[7]
Hơn 20.270 tỷ cho 7 dự án
giáo dục và dạy nghề: Chính phủ quyết định 7 dự án vào ngày 10/1/2008,
gồm:
- Hổ trợ thực hiện phổ cập giáo dục THCS, duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và hỗ trợ phổ cập giáo dục trung học.(680 tỷ đồng) - Đổi mới chương trình giáo dục, sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy (2,830 tỷ đồng). - Đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường.(960 tỷ đồng) - Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục.(700 tỷ đồng) - Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng có nhiều khó khăn.(3,000 tỷ đồng) - Tăng cường cơ sở vật chất các trường học (6,600 tỷ đồng). - Tăng cường năng lực dạy nghề.(5,500 tỷ đồng) Tổng kinh phí để thực hiện 7 dự án trên là 20.270 tỷ đồng, trong đó, chủ yếu là vốn ngân sách Trung ương cấp (16.420 tỷ đồng), vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA (2.080 tỷ đồng) và ngân sách địa phương (1.770 tỷ đồng). Riêng Dự án tăng cường năng lực dạy nghề do Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội tổ chức thực hiện. Còn lại 6 dự án khác sẽ do Bộ GD-ĐT quản lý, điều hành. (Dân Trí online và www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=41&sub=74&article113586) Bên cạnh đó, bà Nguyễn thị Hằng, Chủ tịch hội dạy nghề Việt nam cho biết Bộ Lao động-Thương binh-Xã Hội còn đề xuất 7 dự án phát triển dạy nghề trong năm nay cho giai đoạn 2008-2020. Xem: http://vietbao.vn/Giao-duc/Bay-du-an-phat-trien-day-nghe/40248641/202/ [8] VietNamNet “16,000 tỷ đồng xóa thất nghiệp ? Vừa làm vừa điều chỉnh”, hppt//www.vietnamnet.vn/chinhtri/2007/06/702944 [9] http://www.hochiminhcity.gov.vn/left/tin_tuc/hoat_dong_dieu_hanh/2006/01/24-1-2006 [10] VietNamNet –28/08/2007 – Hà Anh & Kiều Oanh - “Phó Thủ Tướng đọc giảng tại lớp học hiệu trưởng” http://www.vnchannel.net/news/7-giao-duc/200801/52770-hon-20-000-ty-dong-cho-chuong-trinh-giao-duc-dao-tao.html [11] ”Thúc đẩy và trợ giúp các dự án FDI lớn”Thu Hà (Nhân Dân) http://www.binhthuan.gov.vn/news/PagePrint.asp?idnews=029973 [12] Doanh nghiệp FDI:quá phân nửa chưa qua đào tạo” http://vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=11&id=61e9df71c411c3 [13] Báo Pháp Luật TPHCM ngày 11/2/2008)
[14] “Việt nam
nên tăng cường nhập lao động ngoại” Thành Nam (18/12/2007)http://www.vnbh.com/?CatID=home&Key=ldvl&SubKey=xkld&id=5037
hoặc http://vneconomy.vn/printView.phtml?id=ac730dad5348
© Thời Đại Mới
25-4-08
|