thời đại mới
TẠP CHÍ
NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN |
Số 15 -
Tháng 3/2009
Công nghệ Giáo dục qua tác phẩm
“Hợp Lưu Các Dòng Tâm Lý Học Giáo
Dục”
Tác
giả: Phạm Toàn
Nhà
xuất bản: Tri thức, Hà Nội, 2008
Người
đọc: Vũ Quang Việt
Vài dòng giới thiệu
Công nghệ giáo dục, một từ nghe lạ, có vẻ nghịch nhĩ, bởi
vì chúng ta vẫn thường cho rằng giáo dục mang dấu ấn dường như là tâm
linh truyền từ người thày đến học trò. Công nghệ như công nghệ đúc thép,
làm xe hơi mang tính kỹ thuật, khách quan, biến việc sản xuất một sản
phẩm nhất định thành một qui trình, chia ra từng giai đoạn, với công cụ
và các động tác cụ thể, chuẩn xác, để rồi tạo ra các thành phẩm đồng đều
về hình dáng, tính khả dụng và phẩm chất. Công nghệ phi tình cảm. Đấy là
nói về quá trình, công cụ, động tác thực hiện và kết qủa. Nhưng nói về
tình cảm giữa người thiết kế và người thực hiện chúng đối với kết quả
được tạo ra thì cái phần gọi là tình cảm đó không thể cắt bỏ. Nó đúng
với giáo dục và cũng đúng với công nghệ làm thép, làm xe hơi. Chữ công
nghệ giáo dục nhằm diễn tả việc thiết kế giáo dục trẻ em như một khoa
học và thực hiện chúng như một công nghệ. Còn cái tình cảm đối với trẻ
em và giáo dục của người cha đẻ công nghệ giáo dục này ở Việt Nam là Hồ
Ngọc Đại và người cộng sự đắc lực là Phạm Toàn thì khỏi phải bàn. Nhưng
quan trọng hơn cả là cái triết lý nền tảng của công nghệ giáo dục, đó là
phải làm sao cái công nghệ ấy bảo đảm được rằng khi đi học, trẻ em vừa
chiếm lĩnh được tri thức, tức là học được, vừa nhận thấy, một cách hồn
nhiên, rằng đi học là hạnh phúc, chiếm lĩnh tri thức là hạnh phúc. (Coi
hộp 1).
Hộp 1
Triết lý của công nghệ giáo dục (CGD)
–
Phạm Toàn trả lời phỏng vấn của tác giả
Có thể trả lời bằng một câu: ĐI HỌC LÀ HẠNH
PHÚC.
Triết lý đó không chỉ nằm trong bản thân phát
ngôn kia, mà còn nằm trong CÁCH THỰC HIỆN nội dung ấy. Trong
cách thực hiện, sẽ hiểu rõ: VÌ SAO đi học lại là hạnh phúc
của con trẻ, và LÀM CÁCH GÌ để có thể có thực một cái hạnh
phúc ấy?
Xưa nay trẻ em đi học dưới dấu hiệu của chủ
nghĩa kinh nghiệm: bé không học, lớn làm gì? Nói cách đó là
chơi khó trẻ em: có những người không được đi học mà vẫn
thành công trong cuộc đời, thế thì đã sao nào? Và trẻ em
cũng từng đi học như một sự ép buộc: vì thế mà từng có bậc
tiểu học có thời được ta dịch là “cưỡng bách”
(Obligatoire/Compulsory).
CGD cũng đòi hỏi PHẢI đưa kỳ hết trẻ em đến
trường phổ thông, nhưng làm như vậy mà lại theo cách TÔN
TRỌNG trẻ em thay vì bắt bí trẻ em. Vậy là, ở đây nên hiểu
cái “bắt buộc” như là cái Tất Yếu.
Lý giải chuyện đó như sau: trẻ em phát triển
trong tư thế một THỰC THỂ TINH THẦN. Trẻ em phát triển lên
thì cân nặng thêm, nhưng nó “lớn lên” không chỉ vì cân nặng
– có những em gầy gò ốm yếu (còn ai gầy yếu hơn Stephen
Hawking nữa?) – song đó vẫn là một thực thể mạnh, và nó mạnh
là bởi vì tinh thần nó mạnh. Nhà trường phổ thông, do đó,
phải là nơi thỏa mãn nhu cầu phát triển tinh thần của đứa
trẻ, coi sự phát triển tinh thần đó như là một Tất Yếu của
Trẻ em với cả hai chữ T viết hoa.
Làm cách gì đạt được tiêu chí đó? Làm bằng
hai cách: nghiên cứu để hiểu thật rõ CÁCH HỌC của trẻ em,
thậm chí cả cái cách học Phi Học Đường của trẻ em. Khi đã
hiểu rõ cách học khác nhau trước từng đối tượng chiếm
lĩnh (khoa học, nghệ thuật, niềm tin) của trẻ em, khi đó sẽ
có khả năng tổ chức CÁCH DẠY nương theo cách học của các em,
để trẻ em có được những năng lực đồng đều như nhau. Và khi
hiểu rõ cách học khác nhau diễn ra trong bản thân mỗi em,
khi đó sẽ có khả năng tổ chức cách dạy khu biệt hóa
(différencié/differentiated) để các em cùng phát triển nhưng
lại không kìm chân nhau.
Một cách dạy học như thế có thể tìm thấy ở
Maria Montessori, ở Jean Piaget, ở Vasili Davydov, và ở CGD
Việt Nam với người sáng lập là Tiến sĩ Khoa học Hồ Ngọc Đại.
Một cuộc đời học tập như thế khiến trẻ em
thích học – vì vậy mà CGD có cái triết lý của mình phát biểu
thành hai vế như sau: ĐI HỌC LÀ HẠNH PHÚC – MỖI NGÀY ĐẾN
TRƯỜNG LÀ MỘT NGÀY VUI
|
Quyến sách Hợp Lưu Các Dòng Tâm Lý Học Giáo Dục
cho ta thấy cơ sở của Công nghệ Giáo dục của Hồ Ngọc Đại. Quyển sách
có thể nói là chia ra hai phần chính: phần đầu gồm
khoảng 300 trang trình bày một cách tuần tự quá trình phát
triển tư duy và công nghệ của thế kỷ 20, với các đóng góp của triết học
về khai sáng, tự do tư duy, sáng kiến, phát minh, qua đó phát triển khoa
học, công nghiệp hóa sản xuất, và đưa đến những tiến bộ về kinh tế, và
từ cơ sở đó, quyển sách trình bày quá trình phát triển khoa học nghiên
cứu về tâm lý trẻ em, và trên cơ sở này khoa học tâm lý trẻ em, phương
pháp hiện đại về giáo dục trẻ em ra đời. Phần hai của quyển sách cũng
khoảng 300 trang chủ yếu trình bày Công nghệ Giáo dục ở Việt Nam, do ông
Hồ Ngọc Đại qua tiếp cận với ngành tâm lý học trẻ em ở Liên Xô, khi trở
về nước, cùng với sự cộng tác của ông Phạm Toàn và một số người khác đã
bỏ cả đời xây dựng công nghệ giáo dục cho cấp tiểu học.
Vài nét về Hồ Ngọc Đại và việc đọc sách
Ông Hồ Ngọc Đại sinh năm 1936 ở Quảng Trị, thuở nhỏ học ở
đó, rồi Nghệ An. Năm 1951, ông đi bộ lên Việt Bắc để sang Trung Quốc học
ở Khu Học xá Trung ương. Tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm năm 1954 (hồi đó
gọi là Trường Sư phạm Trung cấp Trung ương), ông về dạy học ở Sơn La và
biên soạn sách cho học sinh dân tộc Sơn La. Rồi theo học hàm thụ Toán
Đại học tổng hợp, tốt nghiệp, 1960, về dạy Toán trường Trung học Ngô
Quyền, Hải Phòng. Năm 1970, ông qua Liên Xô học Tâm lý học. Bảo vệ Phó
tiến sĩ rồi tiến sĩ năm 1977. Khi về nước năm 1978, ông mở trường thực
nghiệm tại Giảng Võ, Hà Nội. Đến năm 1985, trường thực nghiệm được phép
mở ra các tỉnh “có yêu cầu”. Năm 1990, đề tài quốc gia Công nghệ Giáo
dục được nghiệm thu, thành lập Trung tâm Công nghệ GD, Hồ Ngọc Đại trở
thành giám đốc trung tâm này. Đến năm 2001, Công nghệ Giáo dục đã mở ra
43 tỉnh và thành phố. Nhưng sau đó, tiếc thay, toàn bộ các lớp dạy theo
công nghệ giáo dục bị dẹp bỏ vì Quốc hội Việt Nam, bởi những cuộc vận
động chưa thật minh bạch từ những người lãnh đạo giáo dục lúc đó, đã ra
nghị quyết “một chương trình, một bộ sách giáo khoa”, dễ dàng đưa
tới tình trạng độc quyền của một cách dạy học (thày giảng trò chép).
Nghị quyết này được dễ dàng chấp nhận cũng vì nó rất phù hợp với ý tưởng
bảo đảm là nền giáo dục phải từ trên quyết xuống, và phải tạo ra một
khuôn mẫu người duy nhất nhằm phục vụ những gì mà hệ thống quản lý xã
hội muốn.
Tất cả những kết quả của công
trình thực nghiệm của Hồ Ngọc Đại gần như bị xóa bỏ vì chủ trương giáo
dục độc đoán một kiểu, áp dụng cho đến nay ở các trường thuộc quyền chi
phối của Bộ Giáo dục và Đào tạo ở Việt Nam, trừ những trường do người
nước ngoài mới được phép mở những năm gần đây, dạy theo chương trình
nước ngoài. (Nhưng thật kỳ lạ, Bộ Giáo dục và các địa phương, ngược với
Nghị quyết Quốc hội, lại rất cởi mở với chương trình ở trường có yếu tố
nước ngoài mở cho con em người lắm tiền nhiều của, và thắt chặt với nền
giáo dục đại chúng!) Tất nhiên, lâu lâu cũng có báo chí nhắc đến Công
nghệ Giáo dục hoặc phỏng vấn GS Hồ Ngọc Đại như mới đây ở Tuần Việt
Nam.[1]
Nhưng
đối với rất nhiều người, dù có đọc qua nhiều bài phỏng vấn này và nhiều
bài phỏng vấn khác, Công nghệ Giáo dục là cái gì đó vừa bí hiểm vừa khó
tin, lại còn bị đồn thổi bởi những người muốn dẹp nó là nó hoạt động của
những nhân vật “hâm hâm”. Tuy vậy, nó trở nên hấp dẫn cần tìm hiểu, vì
cái triết lý xem ra rất ấn tượng, là với công nghệ giáo dục, trẻ em thấy
việc đến trường là niềm hạnh phúc. Quyển sách của Phạm Toàn lấp một phần
vào cái chỗ trống đó. Người đọc nó có thể vẫn chưa hiểu nó là gì, nhưng
ít nhất hiểu rằng nó được xây dựng một cách khoa học. Để viết bài đọc
sách này, người đọc này không những phải đọc kỹ quyến sách của Phạm
Toàn, lại phải tìm hiểu thêm về triết lý giáo dục và việc học của trẻ em
ở nước ngoài để có cái nhìn so sánh, đồng thời phỏng vấn riêng Phạm Toàn
về những điểm rất cụ thể, và phỏng vấn các học sinh đã từng học ở đó để
hiểu thêm về cảm nhận của họ. Có thể kết luận đây là một phương pháp
giáo dục có cơ sở khoa học, dựa vào sự nghiên cứu và hiểu biết về tâm lý
trẻ em, và cũng rất gần với những trường phái giáo dục cấp tiến ở nhiều
nước tư bản phát triển, dù người điểm sách này không có thông tin về
hiệu quả so sánh của nó.
Quyển sách của Phạm Toàn không dễ đọc và nó cũng là
nguyên nhân cho bài đọc sách này. Bởi vì người đọc này muốn giới thiệu
một công trình khoa học đã bị lãng quên, lại chưa được nghiên cứu đánh
giá bằng các phương pháp khoa học hiện đại, dù nó được thực hiện khoảng
hai chục năm ở Việt Nam với Trường Thực Nghiệm Giảng Võ và với các lớp
thực nghiệm có lúc mở ra trên 43 tỉnh ở Việt Nam. Nghe nói với tình cảnh
giáo dục bi đát như hiện nay, nhiều tỉnh trở lại tiếp xúc với Hồ Ngọc
Đại để xây dựng lại các trường hoặc lớp áp dụng Công nghệ Giáo dục. Như
vậy, các nhà nghiên cứu sẽ có cơ hội thực hiện viết luận án nhằm đánh
giá công nghệ này, những điều mà đáng lẽ ra họ đã phải làm trước đây.
Việc đánh giá hiệu quả của Công nghệ Giáo dục và so sánh nó với phương
pháp giáo dục chính thống vừa giúp xem xét khách quan một công trình
khoa học với thiện ý chuyển hướng cách dạy học, vừa giúp nâng tầm sử
dụng các phương pháp hiện đại trong nghiên cứu các vấn đề xã hội chưa
từng được áp dụng ở Việt Nam. Hy vọng có bạn trẻ thấy được sự cần thiết
của việc làm này.
Từ khoa học tâm lý trẻ em đến giáo dục trẻ em
Quá trình phát triển của khoa học tâm lý được trình bày
qua quyển sách chia sẻ quá trình chung của khoa học là cố gắng của con
người biết tư duy, khi không còn bị kiềm chế bởi các chế độ thần quyền ở
châu Âu, cố gắng thoát khỏi nền triết học mang tính siêu hình hoặc tư
biện.
Lúc đầu, dù mang tính thực nghiệm, thực chứng với phòng
thí nghiệm, chúng vẫn được thực hiện dựa trên quan sát phát triển của tự
nhiên như sinh lý con người, hay qua thí nghiệm thực chúng về chúng như
đo cảm giác, đo và quan sát phản ứng trước sự kiện khách quan.
Tâm lý học như
một khoa học được trình bày trong quyển sách là bắt đầu từ Wilhelm
Maximilian Wundt (August 16, 1832 - August 31, 1920) ở Đức, rồi tới E.
L. Thorndike ở Mỹ. Wundt thì tiến hành thực nghiệm trên con người, nhưng
Thorndike đã tiến hành thực nghiệm cả với các con vật, thí dụ như xem
xét xem con vật vận động trong điều kiện đã xếp đặt sẵn, khả năng lập
lại trong điều kiện tương tự và rồi xem chúng có thể dùng ký ức, trí nhớ
để đi tới khái niệm không. Và việc đo lường quan sát được thực hiện bằng
thống kê học. Cũng do đó việc đo lường dựa vào thống kê có những phát
triển quan trọng, để từ đó phát sinh các phương pháp làm test đo lường
trí khôn như của Binet sau này ở Pháp và nở rộ ở Mỹ. Thorndike (1874
– 1949)
cũng là người viết bài “Đóng góp của Tâm lý học cho giáo dục” nói về đo
lường xác xuất đạt tới mục tiêu giáo dục mà Phạm Toàn dịch đưa vào quyển
sách, cho rằng “[do] chỗ tâm lý học có phương pháp đo lường trí thức và
kỹ năng nên nó có thể gợi ra những phương pháp đo nghiệm và xác minh
hoặc trau chuốt các phương pháp dạy học”.
Phạm Toàn giới thiệu thêm những phát triển sau đó về
nghiên cứu tâm lý học trẻ em nhằm phục vụ giáo dục của Jean Piaget (9
August 1896 – 16 September 1980) ở Thụy Sĩ, người đưa ra lý thuyết về
phát triển nhận thức của trẻ em qua từng độ tuổi, dựa vào quan sát và
ghi chú, được gọi bằng từ chuyên môn là tri thức luận biến sinh (Phạm
Toàn dịch từ genetic epistemology). Jean Piaget cho rằng trẻ em phát
triển tốt hơn khi có giao thoa với trẻ em khác (chứ không phải ngồi lì
một chỗ nghe dạy). Còn về quan niệm đạo đức, trẻ em phát triển theo giai
đoạn. Trẻ em tự tạo ra các quan niệm về đúng sai, về công bằng. Những
quan điểm này phát triển và tiến hóa theo độ tuổi, không thể ép buộc
theo khuôn quan điểm đạo đức của người lớn. Chúng phát triển, bất chấp
sự dạy bảo của người lớn, qua quan sát và cọ xát với thế giới chung
quanh đặc biệt qua môi trường giao thoa với trẻ em khác và người lớn.
Vấn đề là hiểu tâm lý trẻ em, không áp đặt, thiết kế việc giáo dục để
chúng tự làm chủ tri thức, tự tin, thay đổi tự nhiên theo độ tuổi, và
thấy hạnh phúc. Tư tưởng của Piaget có ảnh hưởng lớn đến giáo dục ở châu
Âu và Mỹ từ những năm 60 và 70.
Từ những nhà
tâm lý học trên, Phạm Toàn giới thiệu công trình của nhà tâm lý học Nga
Lev Semenovich Vygotsky (November
5,
1896 – June 11, 1934), người đã nhấn mạnh đến vai trò “bối
cảnh văn hóa” trong việc hình thành tâm lý trẻ em, tức là bước thêm
một bước xa hơn Piaget. Trên cơ sở hiểu biết sự đa dạng của các công cụ
và các kỹ thuật văn hóa mà con người đã chiếm lĩnh hoặc hoặc không có
khả năng chiếm lĩnh trong các nền văn hóa khác nhau hoặc trong các giai
đoạn lịch sử khác nhau,…”, giáo dục bây giờ là “nguồn tương đối độc lập
của phát triển” thay cho việc trước đây coi nó là phương tiện củng cố
tiến trình phát triển tự nhiên. Từ đây các nhà tâm lý học đưa đến mô
thức “phát triển nhân tạo”, nghiên cứu các thao tác nhằm giúp
người học có ý thức chiếm lĩnh các hệ thống khái niệm trong tiến trình
học. Nói theo ngôn ngữ khoa học hơn là nghiên cứu “đi sâu vào việc chiếm
lĩnh các khái niệm khoa học của con người – đó là chiếm lĩnh quan trọng
nhất trong tiến trình đi học ở nhà trường.”
Từ Semenovich Vygotsky, hai nhà tâm lý học Nga khác đã có
các công trình nổi trội về tâm lý học, đó là Alexander R. Luria và
Vasili Davydov mà Hồ Ngọc Đại mặc dù nghiên cứu dưới sự hướng dẫn trực
tiếp của Elkonin và Davydov, song vẫn coi mình như học trò của cả một
trường phái Tâm lý học mới trên đất nước này. Hồ Ngọc Đại, lấy học vị
tiến sĩ tâm lý học ở Nga, cùng với Phạm Minh Hạc làm thành hai tiến sĩ
tâm lý học đầu tiên, đáng lẽ khi về nước đã có thể có chức vụ quan
trọng, nhưng ông chọn dạy tiểu học và từ lớp một, để từ đó xây dựng lý
thuyết và thực nghiệm Công nghệ Giáo dục về dạy trẻ em ở Việt Nam, lúc
đầu tại trường thực nghiệm Giảng Võ, nhưng sau đó phát triển ra 43 tỉnh
và thành phố, cho đến lúc bị giải tán. (Lý do tại sao đã được giải thích
trong phần giới thiệu của bài điểm sách này, nhưng người đọc không thể
tìm được câu trả lời sau khi đọc hết quyển sách, có lẽ chỉ vì Phạm Toàn
không thể đưa những tình tiết “thời cuộc” vào một cuốn sách có ý định
mang tính kinh điển.) Phạm Toàn, tác giả quyển sách, là người tham gia
cùng với Hồ Ngọc Đại phát triển công nghệ giáo dục dạy ngôn ngữ và dạy
văn ở bậc tiểu học.
Công nghệ giáo dục của Hồ Ngọc Đại
Vậy nói một cách đơn giản (dù vấn đề không đơn giản chút
nào), công nghệ giáo dục là gì? Đó là tổ chức công cuộc giáo dục lấy trẻ
em làm trung tâm, ở đó:
1.
Giáo viên thiết kế,
học sinh thi công, thày tổ chức trò hoạt động thay cho giáo viên giảng
giải học sinh nhắc lại. Nguyên lý vận hành được tóm gọn trong công thức
A →
a. Thành phần A gồm ba dạng: khoa học, nghệ thuật và niềm tin. Mũi tên
là quy trình tổ chức để học sinh có thể tự chiếm lĩnh A và có được cái a
riêng trong tinh thần của từng em.
2.
Phương pháp giáo dục không phải là
cách giảng dạy mà là phương pháp để trẻ em chiếm lĩnh thực tại, chiếm
lĩnh đối tượng khoa học, đi lại con đường nhà bác học đã đi, đi lại con
đường người nghệ sĩ đã đi, không buộc trẻ tiếp nhận chân lý có sẵn. Theo
người đọc sách này, đây là một cách nói “ấn tượng” nhằm diễn đạt điểm
cốt yếu của phương pháp tiếp cận vấn đề, là tìm ra nguyên lý, chứ không
nên hiểu theo nghĩa đen là tìm về cách mà các nhà khoa học ngày xưa đã
thật sự đi qua để khám phá ra lời giải.
3.
Nguyên lý của phát triển bài học
là đi từ trừu tượng đến cụ thể, nâng nấc thang trừu tượng kế tiếp nhau
để đi đến trình độ cụ thể ngày càng cao hơn. Từ phát triển hiện thực vật
chất đến phát triển tư duy trong tâm lý và khái niệm. Rồi từ phát triển
trong hợp tác với thày giáo đến phát triển độc lập, từ trong giáo dục
nhà trường đến ngoài khuôn khổ nhà trường. (Coi hộp 2 để biết là một thí
dụ cụ thể trong việc dạy toán từ từ trừu tượng đến cụ thể như thế nào).
Hộp 2
Từ trừu tượng đến cụ thể
Công cụ trên có thể dùng đề dạy toán cộng và
toán trừ. Thay vì dạy 2 hòn bi cộng với 1 hòn bi thành 3 hòn
bi, ta có thể giới thiệu vấn đề hết sức trừu tượng như sau,
chẳng hạn +3 - 4 = -1, là bước sang bên phải theo hình vẽ từ
điểm (0) 3 bước (+3) và bước ngược lại 4 bước (-4), thì kết
quả là -1, tức là bước ngược lại 1 bước. Bước sang phải hay
trái, lên hay xuống là thao tác (operator). Học sinh có thể
học và hiểu ngay được ý niệm 0-7 = -7. Thày giáo trong Công
nghệ Giáo dục là nghiên cứu tìm ra các công cụ, phân tích
thành thao tác để học sinh tự thực thiện để học và hiểu.
|
4.
Quá trình hình thành bài học là:
hành động phân tích tìm ra logic của khái niệm, hành động diễn đạt logic
và phát hiện dưới các mô hình khác nhau và cuối cùng là hành động
“chuyển vào trong”, tức là hiểu và có thể hành động.
5.
Thiết kế là xác định mục đích (thí
dụ đọc được chữ, làm được toán cộng với con số từ 1 tới 10), thao tác
cần làm và phương tiện cần thiết, để học sinh tự hành động chiếm lĩnh
tri thức, và đánh giá kết quả học tập.
6.
Giáo án là kế hoạch tổ chức cho
học sinh làm, là bản thiết kế làm việc,rành rọt cái gì làm trước cái gì
làm sau, thày làm gì, trò làm gì, tức là phù hợp với từng học sinh. Giáo
án không phải là cái thày đọc cho học sinh chép. Sách giáo khoa chỉ là
biên bản quá trình làm và kết quả làm việc giữa thày và trò.
Hộp 3
Phạm Toàn giải thích: Dạy Tiếng Việt lớp 1 thế nào?
Bản thiết kế dạy TV lớp 1 tổ chức cho học sinh đi theo các
“công đoạn” của các nhà ngữ âm học khi học và tìm cách ghi
lại một ngôn ngữ.
–
Công đoạn 1: tách lời nói thành các tiếng
(rời, hoặc đơn âm tiết). Thí dụ “Cháu chào bà cháu đi
học ạ” là lời gồm 7 tiếng cháu , chào, bà,
cháu, đi, học và ạ. Tự ghi lại được (viết
“chính tả”) bằng mô hình ba chiều (hột ngô, nút chai, hòn
sỏi) và mô hình hai chiều (hình vuông, tròn).
–
Công đoạn 2: phân tích các tiếng (điều đã
biết, sản phẩm có được từ công đoạn trước) thành những
tiếng giống nhau và tiếng khác nhau. Tự ghi lại
bằng cách tô cùng mầu nếu chúng giống nhau. Như lời nói
bên trên có các tiếng cháu phát âm như nhau thì
nhận ra được sự giống nhau của 2 tiếng này. Chú ý: ở công
đoạn này, dừng lại phân tích tiếng giống nhau, tạm thừa nhận
số còn lại là khác nhau.
–
Công đoạn 3: phân tích các tiếng khác nhau;
tập trung phân tích vào chỗ khác nhau ít nhất (nhưng
lại quan trọng nhất song lại dễ phân tích nhất): tiếng mang
thanh ngang, thanh huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã,
thanh nặng. Tự ghi và viết chính tả tiếng có các thanh bằng
các dấu quy ước (không dấu, dấu sắc, dấu huyền, dấu hỏi, dấu
ngã, dấu nặng) đặt trên các mô hình vuông, tròn.
–
Công đoạn 4: phân tích một tiếng thanh ngang bất kỳ
thành hai phần: phần đầu và
phần vần.
–
Công đoạn 5: phân tích từng phần của một tiếng thanh
ngang mẫu [ba] để phân biệt cách phát nguyên âm [a] và phụ
âm [b] – mở rộng ứng dụng cách phát âm sang tất cả
các nguyên âm và tất cả các phụ âm – tự học cách
ghi chữ a và chữ b theo quy ước – mở rộng sang phát âm
và ghi lại được tất cả các nguyên âm và phụ âm trong
chuỗi lời nói (kể cả các phụ âm của người dân tộc Tây Nguyên
như [B’r], [T’r] và của người Tày-Nùng [sl], thì học sinh
dân tộc thiểu số cũng tìm cách ghi lại). Bắt đầu từ công
đoạn 5, học sinh phải đọc to và đọc thầm những văn
bản chỉ gồm những tiếng có hai phần với tốc độ 60 tiếng mỗi
phút, biết đọc thầm, có khả năng ghi lại đúng chính tả
với tốc độ 5 tiếng mỗi phút.
–
Công đoạn 6: khi học đến các nguyên âm [e], [ê], [i]
thì học luật chính tả ghi phần đầu của tiếng (phụ âm
[“cờ”] không ghi bằng chữ c nữa, mà ghi bằng chữ k – mở rộng
cách ghi ke, kê, ki, sang ghe, ghê, ghi và nghe, nghê, nghi.
–
Công đoạn 7: phân tích từng phần của một tiếng thanh
ngang mẫu tiếng [loa] để nhận ra, so với tiếng [ba] chỉ gồm
có phụ âm đầu và âm chính là một nguyên âm, thì nay
tiếng [loa] còn có âm đệm nằm giữa âm đầu và âm chính
– mở rộng sang tất cả các vần có âm đệm: [oe] [uê] [ươ] [uy]
– mở rộng luật chính tả c/k sang c/k/q khi phụ âm [“cờ”]
đứng trước vần có âm đệm – yêu cầu về tốc độ đọc và chính tả
giữ nguyên như công đoạn 6.
–
Công đoạn 8: phân tích từng phần của một tiếng thanh
ngang mẫu tiếng [lan] để nhận ra phần vần không có âm đệm,
chỉ có âm chính và âm cuối – học các bán
nguyên âm [ă] và [â] và ghi chúng trong những tiếng nhất
thiết phải có âm cuối khép lại – ứng dụng luật chính tả c/k
vào dạng tiếng như [kem], [kêm], [kim] – yêu cầu về tốc độ
đọc và viết chính tả giữ nguyên như công đoạn 7.
–
Công đoạn 8: phân tích từng phần của một tiếng thanh
ngang mẫu tiếng [loan] để nhận ra phần vần có đủ âm đệm,
âm chính và âm cuối – ứng dụng luật chính tả
c/k/q vào dạng tiếng như [quan], [quăn], [quân] – yêu cầu về
tốc độ đọc và viết chính tả giữ nguyên như công đoạn 7.
–
Công đoạn 9: học luật chính tả ghi nguyên âm đôi
[iê], [uô], [ươ] làm âm chính với cách ghi ia, ua, ưa khi
vẫn không có âm cuối (thí dụ: bia, cua, trưa) và với cách
ghi iê, uô, ưa khi vần có âm cuối (thí dụ: biên, chuông,
trương).
Bản thiết kế này hoàn toàn khác với những bản thiết kế dạy
“vỡ lòng” dùng trong cả thế kỷ 20 ở Việt Nam: nó hướng dẫn
học sinh biết cách tự học qua các hành động học như:
tự phát âm, tự phân tích ngữ âm, tự ghi lại.
|
Triết lý Công nghệ Giáo dục nếu hiểu một cách đại thể,
dựa vào chính kinh nghiệm của người đọc này, là một triết lý giáo dục
dựa vào các kết quả của nghiên cứu tâm lý giáo dục trên thế giới, đặc
biệt là Piaget và sự vận dụng ở Nga vào thực tiễn theo từng giai đoạn
phát triển của trẻ em trên trục định hướng không khác mấy với Piaget, và
nhất là vào kết quả thực chứng từ công việc các tác giả này thực hiện ở
Việt Nam: Công nghệ Giáo dục Việt Nam đã mở rộng và thoát ra khỏi hoàn
cảnh chỉ có một trường thực nghiệm như trường Jean-Jacques Rousseau của
Piaget và trường số 91 của Viện Tâm lý học ở Moskva. Nó muốn thay thế
nền giáo dục nhồi nhét, thày đọc trò chép, về nhà thì học thêm và gò
lưng luyện giải bài mẫu. Dựa vào kinh nghiệm ở Mỹ, theo người đọc sách
này hình dung, Công nghệ Giáo dục của Hồ Ngọc Đại có thể cũng khá sát
phương pháp giáo dục thực hiện ở các trường theo phương pháp Montessori,
bắt nguồn ở Geneva, quê hương của Piaget, hay phương pháp mà các trường
tiểu học và trung học do Tổ chức Liên Hợp Quốc hiện đang quản lý gián
tiếp (tiếp nhận ảnh hưởng của Piaget).
Đơn giản là các trường loại này phát triển các hoạt động
dựa vào hợp tác nhóm, nhưng theo dõi, dạy và để học sinh phát triển theo
nhịp điệu của từng em, không tạo cạnh tranh làm trẻ em mất tự tin, do đó
trong giai đoạn tiểu học, các trường này không cho điểm, không xếp hạng
học sinh, nhưng theo dõi kỹ, đánh giá mặt yếu, mặt mạnh và làm việc
thường xuyên với phụ huynh để hướng dẫn học sinh tiến bộ thêm. Không
phải hầu hết các trường Mỹ theo phương pháp này, nhưng phải nói là các
trường và cha mẹ muốn phát triển trẻ em hài hòa tự tin thì thường đi học
các trường này. Các trường áp dụng phương phát này chỉ dễ thực hiện với
lớp ít học sinh. Ở lớp theo phương pháp Montessori ở Mỹ, và ở cả trường
Liên Hợp Quốc, một lớp học thường không quá 25 em, với một giáo viên
chính và một trợ lý giáo viên (đó là chưa kể các giáo viên dạy nhạc, vẽ,
thể dục). Tôi có hỏi tác giả Phạm Toàn là việc ứng dụng ở Việt Nam như
vậy có phải chỉ ở cấp tiểu học hay đã phát triển ra toàn các cấp học phổ
thông. Ông Phạm Toàn trả lời:
Mặc dù đã mở từ lớp 1 cho tới lớp 12, song Công nghệ
Giáo dục (CGD) chỉ có thể nói chắc là nó đã làm chủ được bậc tiểu
học. Nói thật chắc nữa, thì nó làm chủ được môn Tiếng Việt, môn Toán
và môn Văn tiểu học. Nhưng học xong tiểu học CGD, lên cấp trên, ít
nhất nó cũng ngang trình độ chung, có rớt thấp đến đâu thì cũng đến
cái đáy ấy thôi!
Điều quan trọng là học hết lớp 5 CGD, trẻ em thích
học, và trình độ thì khác hẳn! Hết lớp 1 các em đã đọc nhanh và viết
không sai chính tả, hết lớp 3 không nói và viết sai câu, hết lớp 5
thì viết được một văn bản tử tế. Về văn, các em có cảm thụ văn mà
học sinh các lớp đại trà không so sánh được. Về Toán cũng thế, hết
lớp 1, các em tự làm lấy bảng cộng; chỉ sau 7 tuần đầu lớp 2, các em
đã thành thạo các hệ đếm, và có thể cộng trừ tới hàng tỷ.
Giáo viên dạy tiểu học tỉnh Lao Cai đi thi giáo viên
giỏi bao giờ cũng đoạt giải, vì biết cách vận dụng cách dạy đã học
được vào “phong trào chung”.
Ôi, nếu CGD được mở đàng hoàng, lại được thỏa sức
nghiên cứu, thì có khi nó sẽ trình ra cho xã hội một bậc học phổ
thông không cần đến 12 năm, tiết kiệm hai năm mà chất lượng lại cao
hơn. Thật đấy! Chỉ vì nó biết cách rút ngắn được việc học môn tiếng
Việt. Nhưng số phận dân tộc này còn cần được thử thách…
Về câu hỏi là: Có phải trường giáo dục theo Công nghệ
chỉ có thể áp dụng cho những lớp ít học sinh, và học cả hai buổi để thày
có thể làm việc với từng học trò? Phải chăng như vậy là không thể áp
dụng đại trà ở Việt Nam vì các lớp hiện nay có quá nhiều học sinh và lại
học có 1 buổi? Ông Phạm Toàn trả lời:
Những điều tôi vừa trả lời hàm nghĩa rằng CGD đi
thẳng vào “hiện đại hóa”, nhưng cái hiện đại hóa ấy không có nghĩa
là chạy đua theo “kỹ thuật mới”, không có nghĩa là chạy đua theo
những công cụ dạy học mới (như các trường tư thục hiện thời đang
khoe để chiêu sinh con nhà giàu nhưng chưa giàu tới mức đủ sức cho
con đi “du học” ngay từ bậc tiểu học).
Không có một tư tưởng mới, thì nhập nhiều máy tính
cũng chỉ thêm được các cửa hàng chơi ghêm và chít chát thôi, chứ làm
gì có công nghệ thông tin!
Cá nhân tôi đã đi huấn luyện giáo viên, nhiều cô giáo
trình độ lớp 7 cộng thêm một thời gian ngắn học sư phạm. Do không
huấn luyện bằng những bài giảng lý thuyết, mà chỉ là hướng dẫn dùng
thiết kế, nội dung như sau thôi, nên giáo viên rất dễ thực hiện:
·
Giao việc cho học sinh như thế nào? Làm cách gì để
học sinh hiểu rõ đã được giao việc?
·
Giao việc rồi thì làm mẫu cho học sinh làm theo. Thí
dụ: làm mẫu phát âm, để học sinh phát âm theo (chứ không giảng giải
về vẻ đẹp của tiếng Việt chẳng hạn!).
·
Làm mẫu xong thì phải cho học sinh làm lại. Làm cách
gì để chữa cho những em làm chưa đúng?
·
Khi học sinh làm xong việc thì cư xử như thế nào
(thay vì cho điểm và “dứ” trẻ em bằng điểm số)?
·
Gặp học sinh chậm thì cư xử thế nào (thay vì dọa nạt
và hạ điểm – và những năm sau này có tiền rủng rỉnh thì gạ gẫm dạy
thêm và học thêm)?
Cứ thế, nước lên thì thuyền lên, khi còn nghèo, lớp
học đông tới 40 em thì ta chấp nhận dạy 40 em, khi cuộc sống cho
phép một lớp ít học trò, thì ta “xài sang”, lo gì. Nhưng yếu tố
thành công của một lớp học đâu có nhờ vào ít hay nhiều học sinh?
Ngành giáo dục từng dạy ở miền núi mỗi lớp dưới mười học trò mà đánh
vật mãi có xong đâu? CGD bắt tay vào, lớp đông hơn, mà chất lượng
vẫn cao, xin lên Lao Cai, đến những lớp cho học sinh dân tộc thiểu
số, và ta sẽ có một cách nhìn khác đối với vấn đề kỹ thuật.
Một
câu hỏi nữa tôi gửi tác giả Phạm Toàn là:
Khi ông Hồ Ngọc Đại phát biểu là hệ thống giáo dục
ở Việt Nam phải xóa đi làm lại, người nghe hiểu ngầm rằng ông ấy đã có
phương pháp học, hướng dẫn học cho mọi cấp học từ tiểu đến đại học. Vậy
có phải ông ấy chỉ nói về cấp tiểu học, hay một vài lớp trong cấp tiểu
học?”
Tác giả Phạm Toàn trả lời:
Câu này lẽ ra nên hỏi thẳng Hồ Ngọc Đại!
Tôi xin trả lời theo cách hiểu của tôi như sau.
Hồ Ngọc Đại nói “giỡ ra làm lại từ đầu”, có thể hiểu
theo mấy nội dung sau:
–
Muốn
cải cách nền Giáo dục Việt Nam đến nơi đến chốn, thì trước hết phải
“giỡ” cái nguyên lý vận hành đã có – bây giờ ta thích gọi bằng cái
“triết lý” – để thay bằng cái mới hoàn toàn. Nguyên lý cũ là “Thầy
giảng giải–Trò ghi nhớ” cần được “giỡ đi” và thay bằng “Thầy tổ
chức–Trò thi công”.
–
Một
ông thánh sống cũng không làm lại được nền giáo dục mới trong một
vài năm; điều hoang tưởng chỉ có thể do ông Chử Đồng Tử làm được
trên bờ sông với bà Tiên Dong thôi. Ông Hồ Ngọc Đại khiêm tốn đề
nghị “thực nghiệm” đi trước một bước và cứ đưa dần vào đời sống, bắt
đầu bằng thực nghiệm tiếp ở địa phương rồi đưa dần vào đại trà.
–
“Giỡ
ra làm lại từ đầu” còn có ý nghĩa ở tư tưởng triệt để trong mọi
việc, không làm ăn theo lối nửa dân chủ nửa phong kiến, hiện đại hóa
“kết hợp với” bản sắc dân tộc mà chẳng ai hiểu “bản sắc” đó là quỷ
quái gì ngoài chuyện hương hoa cờ đèn kèn trống mũ mãng áo khăn xúng
xính… cứ hệt như thời xửa thời xưa khi dân tộc ta chưa có hàng triệu
người hy sinh xương máu để có Tự Do và Dân Chủ hôm nay.
Độc giả có thể đọc thêm Hộp 4 ở dưới, phần phỏng vấn các
học sinh đã từng học ở trường Thực nghiệm CNGD Giảng Võ ở Hà Nội để thấy
được một phần cách dạy ở đây.
Quyển sách của Phạm Toàn dày dặn, được nhà Xuất Bản Trí
thức chịu in trong một xã hội mà người có tiền thường ít bỏ tiền ra mua
sách đọc là một hành động khá dũng cảm, vì việc xuất bản có thể nói khó
lòng thu lại được vốn, nói chi lợi nhuận. Nhưng trong quyển sách này,
tác giả Phạm Toàn đã gói ghém nhiều bức xúc và do đó đưa các tư tưởng
cần phổ biến vào nhiều phụ lục. Những phụ lục này khi đứng riêng và được
đọc kỹ sẽ đưa đến độc giả các giá trị về tư tưởng và thông tin quan
trọng. Tác giả muốn đưa ra những thông tin như là những gợi ý cho bạn
đọc tiếp tục mầy mò thêm. Vì thế có thể thấy trong sách rất nhiều thông
tin có khi tưởng như không liên quan lắm đến nội dung tâm lý học giáo
dục (thí dụ như có hẳn một phụ lục dài, khá đầy đủ về nền dân trị Mỹ qua
tóm tắt tác phẩm của Alexis de Tocqueville, phụ lục liên quan đến ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ thời kỳ khai sáng ở châu Âu trên nước Mỹ,
thông tin về chân tướng Ngân hàng Thế giới, hay những phân tích và luận
điểm về đối tượng nghệ thuật). Không phải những thông tin này không liên
quan đến chủ đề của quyển sách, nhưng chúng đã làm cho quyển sách trở
nên phức tạp hơn, khó đọc hơn.
Tác giả viết khoảng gần 300 trang về công nghệ giáo dục,
nhưng thú thật một người không ở trong nghề giáo dục như tôi có cố gắng
cũng chỉ lĩnh hội được một phần công việc thày thiết kế trò thi công của
Công nghệ giáo dục, mặc dù tôi biết đây là công trình tâm huyết cả đời
của ông Hồ Ngọc Đại và tác giả Phạm Toàn. Nếu quyển sách có một vài thí
dụ cụ thể, trình bày chi tiết quá trình thày thiết kế và trò thi công
như thế nào thì người đọc mới hy vọng có hiểu biết thực sự. Chính vì
thế, trong bài đọc sách này tôi đã viết thư riêng yêu cầu tác giả cho ví
dụ và những ví dụ này hy vọng giúp độc giả hiểu rõ thêm về Công nghệ
Giáo dục, và may thay tác giả đã phản hồi.
Bài đọc sách này đặt ra một câu hỏi cho các nhà lãnh đạo Việt Nam: Phải
chăng chỉ có một cách dạy học, và chỉ cần một bộ sách giáo khoa? Ở đây
cũng cần nói rõ là nội dung có thể giống nhau nhưng cách tiếp cận để học
sinh chiếm lĩnh tri thức qua sách giáo khoa và qua cách dạy thì có thể
rất khác nhau. Một cách dạy, một chương trình, một bộ sách giáo khoa có
phải là chính sách đã giết chết mọi cố gắng, mọi tâm huyết đưa khoa học
vào giáo dục ở Việt Nam?
HỘP 4
Phát biểu của cựu học sinh trường thực nghiệm Giảng Võ
Trả lời phỏng vấn
Trường thực nghiệm Giảng Võ và các lớp tương tự không còn nữa,
cho nên việc tìm hiểu về chúng trở nên rất khó khăn. Để giúp bạn
đọc hiểu về trường hơn một chút, tác giả bài viết này đã tìm
cách liên lạc để phỏng vấn các bạn đã học ở đây. Rất may là các
cựu học sinh CNGD vừa tổ chức Hội Ái Hữu cựu học sinh. Trả lời
các câu hỏi trình bày ở được giữ gần như nguyên văn.
Câu hỏi 1.
Kinh nghiệm của ban về trường Thực Nghiệm Giảng Võ. Khi
còn nhỏ đi học ở đó, ban có thấy đi học là một hứng thú,
chờ đợi để được đến trường không? Có phải là vì lớp ít
học sinh, do đó cho phép bạn gần gũi với với thầy cô,
bạn bè, vừa học vừa chơi với những phương pháp trao đổi
qua lại (interactive) giữa thày và học sinh không? Học
sinh không phải làm bài tập ở nhà? Thày không cho điểm,
xếp hạng học sinh từ cao đến thấp mà tiến trình dạy tùy
theo sự phát triển của học sinh?
Câu hỏi 2.
Nghe nói là phụ huynh và ngay cả học sinh cũng không
muốn tiếp tục trường loại này vì học sinh sợ không cạnh
tranh nổi trong một hệ thống học để đi thi, luyện để có
điểm cao vào đại học chọn?
Câu hỏi 3.
Nghe nói sau khi công nghệ giáo dục được phát triển đến
hơn 30 tỉnh thì Bộ Giáo dục quyết định đóng cửa chương
trình vì nó không giống với chương trình Bộ phát hành.
Hay có lý do nào khác?
|
1.
Nguyễn Lân Hiếu, bác sĩ phẫu thuật Tim, Hà Nội, học sinh
khóa 1, 1978 (học đến hết lớp 10)
Ưu điểm nổi bật của học sinh Thực Nghiệm là đào tạo con
người có cá tính và có khả năng tự xoay sở trong mọi hoàn cảnh.
Việc không tiếp tục chương trình là hoàn toàn do vấn đề chính
trị và việc tổ chức đội ngũ kế cận của trường không được như
mong muốn. Một phần cũng là lỗi từ phía nhà trường. Việc các phụ
huynh học sinh không muốn cho con học tiếp cũng là điều dễ hiểu
vì ai cũng muốn con mình có tương lai chắc chắn.
2.
Từ Phương Thảo, họa sĩ thiết kế đồ họa, TP. HCM, học sinh
khóa 2, 1979 (học đến hết lớp 8).
Lớp 4A, tôi nhớ một lần gặp một đề văn thế này: “Em hãy kể về
một hình ảnh thích nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”.
Tôi vốn không ưa thích gì môn Văn, nhất là cái thể loại phân
tích, bèn đánh liều đề nghị: “Em vẽ được không cô?”. “Đồng ý, em
thử xem”.
Sáng hôm sau, quyển vở Văn đầy chữ của tôi có thêm một bức vẽ
màu nước lem nhem ở trang phải, và vì là màu nước, nên nó còn
loang ra mấy trang bên cạnh nữa. Nền đen, vài đốm đỏ của hoa lựu
và đốm vàng duy nhất của ông Trăng. Tôi nhớ lần đó đã ôm trọn
điểm A- cho “bài phân tích” chỉ làm nhoáy trong 5 phút.
Và đây là hai câu thơ (có lẽ là duy nhất) mà tôi nhớ mãi :
“ Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
Bây giờ, cô con gái tôi cũng lớp 4. Tôi vẫn nhớ đến câu chuyện
này khi con tôi hỏi thế nào là hạnh phúc. Đơn giản lắm con ạ: “Đi
học là hạnh phúc”.
3.
Hà Việt Anh, nhà báo, Hà Nội, học sinh khóa 2 – 1979 (học
đến hết lớp 8)
Cũng như bao học sinh Thực Nghiệm khác tôi thấy mình thật hạnh
phúc vì đã được lớn lên dưới mái trường ấy, nơi chúng tôi coi
như ngôi nhà thứ hai và bạn bè thày cô như người ruột thịt của
mình. Nơi ấy, suốt một thời đi học, chúng tôi luôn được là
"chính mình" với tất cả những ưu, khuyết điểm. Điều này theo tôi
là vô cùng quan trọng: bạn được chấp nhận như chính bạn vốn có
chứ không phải vì nhà bạn giàu, bố mẹ bạn có chức quyền, vì bạn
xinh đẹp, giỏi giang... Dưới mái trường Thực Nghiệm ngày ấy
không có sự phân biệt đâu là môn chính, đâu là môn phụ nên các
bạn học không khá những môn Văn, Toán, Tiếng Nga mà vẽ đẹp, hát
hay vẫn rất tự tin, vẫn được cô giáo và các bạn khác yêu mến.
Bạn thử hình dung xem nếu con bạn bây giờ đi học mà chỉ giỏi đá
bóng, vẽ vời mà học kém những môn nhà trường coi là chính thì sẽ
thế nào? Có lẽ chính vì vậy mà chúng tôi lớn lên thành những
người tự tin, yêu đời, không sợ những cái mới, cái khó và nói
như bạn Minh Ngọc khóa 3 là không thích "mình lẫn vào đám đông".
Mãi mãi tôi không bao giờ quên các tiết học Văn học. Từ những
năm lớp 3, lớp 4 chúng tôi đã được tiếp cận với các tác phẩm
kinh điển văn học nước ngoài. Những bài giảng tha thiết say sưa
của các cô giáo đã "truyền lửa" cho chúng tôi, truyền cho chúng
tôi tình yêu văn học, yêu cái đẹp, cái thiện. Không có một hình
thức, công thức bắt buộc nào được quy định ngặt nghèo mà nương
chủ yếu vào cảm thụ của từng học sinh. Thày cô giáo chỉ đưa ra
vấn đề còn giải quyết thế nào là do từng học sinh. Nếu bạn Từ
Phương Thảo thay vì viết bài văn đã vẽ một bức tranh thì tôi đã
nhiều lần viết những bài thơ (đúng hơn là văn vần) thay cho viết
bài văn thuần túy, nhưng tôi vẫn được cô giáo chấm điểm A, cô
còn khen: "Sáng tạo khi làm bài". Chính sự "không áp đặt" cách
viết văn "mở bài - thân bài - kết luận" cứng nhắc ấy đã giúp tôi
rất nhiều trong việc học tập sau này, dù là trong nước hay khi
theo học chuyên ngành ngữ văn tại trường đại học tổng hợp danh
giá nhất nước Nga. "Giúp" ở đây không phải là giúp đạt điểm A
như ngày nào mà là lối tư duy không theo lối mòn, cách cảm nhận
thế giới theo cách của chính mình.
GS. TSKH Hồ Ngọc Đại đã hiện thực hóa được triết lý của CGD: ĐI
HỌC LÀ HẠNH PHÚC - MỖI NGÀY ĐẾN TRƯỜNG LÀ MỘT NGÀY VUI! Chúng em
mãi mãi biết ơn Thày và CGD!
4.
Trần Lan Hương, quản lý quỹ đầu tư, TP. HCM, học sinh
khóa 2 – 1979 (học đến hết lớp 8)
Theo tôi, ưu điểm lớn nhất của CNGD TN là lấy học sinh làm
trung tâm. Mô hình này không nhằm đào tạo “gà nòi” để đi
thi thố, mà đào tạo ra những con người có cá tính, năng động,
biết sống bằng cả trí tuệ và tâm hồn.
Hồi đó, bọn trẻ con chúng tôi sáng xách cặp lồng cơm đi, trưa ăn
ngủ với nhau ở trường, chiều mới về nhà. Cơ sở vật chất đơn sơ
mà đi học rất hứng thú, không thấy học là áp lực. Cuối mỗi ngày
luôn có giờ “Tự học” để làm hết tất cả các bài tập ngay tại lớp,
bạn bè kèm nhau học, không biết thì hỏi thày, về nhà chỉ có
chơi, chẳng biết đến học thêm là gì. Lớp 3 lớp 4 đã có giờ “Cảm
thụ văn học” để say sưa tưởng tượng “ là Asin kể lại trận đánh
với Hecto” trong Thần thoại Hy Lạp hay thút thít với “Cô bé bán
diêm” của Andecxen… Trẻ con được khuyến khích phát biểu ý kiến
riêng của mình. Không có khái niệm về “văn mẫu” để các thầy cô
“chấm điểm Văn như Toán”, tức là đến từng 0,25 điểm mỗi ý như
bây giờ!!! Trường chỉ chấm điểm A, B, C, D, chẳng phải đua chen
“xếp thứ” trong lớp. Tất cả các bạn học Thực Nghiệm của tôi sau
này đều trưởng thành, và đúng là “không lẫn vào đám đông”.
Theo tôi một mô hình ưu việt như vậy nhưng không được phát triển
trong hệ thống giáo dục công ở nước ta là do “thời
thế”. Các tác giả CNGD vốn là các nhà khoa học có đầu óc cấp
tiến, không phải người quen làm chính trị nên không được nhiều
sự ủng hộ từ phía chính quyền. Áp dụng CNGD theo đúng mô hình
nguyên bản cũng đồng nghĩa với việc trẻ con không cần phải học
thêm, các thày cô giáo không có thu nhập thêm, trong khi đồng
lương nhà nước thì không đủ sống… Các phụ huynh thì lo CNGD
không giúp được con họ vào trường chuyên lớp chọn để đậu đại học
theo kiểu thi hiện nay. Nói tóm lại, trong cơ chế
nhà nước này, việc triển khai đại trà CNGD trong hệ thống
GD công có vẻ như “chẳng đem lại lợi ích cho ai” ngoài “lợi
ích cho trẻ con”, mà rất tiếc trẻ con lại không được
quyền quyết định!!! Cái giá phải trả không chỉ là sự đánh đổi
tuổi thơ của nhiều thế hệ mà là tương lai của dân tộc khi được
lèo lái bởi những “sản phẩm” được thiết kế bởi tư duy chính trị,
không phải vì trẻ em.
Công nghệ giáo dục là mô hình mà các cựu học sinh như chúng tôi
cùng cha mẹ mình thực sự mang ơn. Càng nhìn lại những trải
nghiệm của mình tại ngôi trường Thực Nghiệm ngày ấy lại càng cảm
thấy xót xa về nền giáo dục "thảm họa" hiện nay. Cho đến giờ, để
bảo vệ mô hình này, những người thày đáng kính của chúng tôi đã
phải "đơn thương độc mã" chiến đấu với các nhà quản lý giáo dục
30 năm nay, bởi vì những lứa học trò của các thày còn quá trẻ để
tiếp sức!
5.
Trần Hồng Quang, Giám đốc tư vấn tài chính, Hà Nội, học
sinh khóa 2 – 1979 (học đến hết lớp 8)
Thật là khó để có thể gói gọn những nhận xét về mô hình giáo dục
của Thực Nghiệm trong 1 vài trang giấy. Có lẽ không chỉ riêng cá
nhân tôi cảm thấy rất biết ơn cha mẹ chúng tôi đã gửi chúng tôi
đến làm những “con chuột bạch” của thầy Hồ Ngọc Đại.
Chúng tôi đã trưởng thành và ngày hôm nay nhìn lại những năm
tháng làm “chuột bạch” chúng tôi lại càng cảm thấy biết ơn cái
phương pháp mà Thực Nghiệp đã áp dụng với chúng tôi. LOGIC lại
không phải là thứ duy nhất mà chúng tôi được làm quen từ lớp 1
mặc dù lối tu duy LOGIC hoá mọi thứ trong cuộc sống đã giúp
chúng tôi vượt qua rất nhiều những trở ngại để tồn tại, để vươn
lên, để thành công mà vẫn là chính mình.
Điều quan trọng hơn cả lối tư duy LOGIC mà chúng tôi đã “ngấm”
vào trong người thông qua phương pháp giáo dục ở Thực Nghiệm lại
chính là tư duy cảm xúc. Chúng tôi lớn lên hàng ngày ở trường
cùng với những nốt nhạc và những bức tranh do chính chúng tôi
hát và vẽ để rồi sau 20-30 năm sau nhìn lại chúng tôi mới nhận
ra rằng những giá trị EQ đôi khi còn quan trọng hơn cả IQ. Và có
lẽ điều này càng trở nên rõ rệt khi mỗi người trong chúng tôi
trưởng thành và tham gia vào xã hội.
Không biết ỷ tưởng sâu xa trong “cuộc thí nghiệm” của thầy Hồ
Ngọc Đại là gì nhưng 1 điều rõ ràng mà chúng tôi đều nhận thấy
là những “phản ứng phụ” của “cuộc thí nghiệm” ấy. Đó chính là
những “con chuột bạch” có khả năng sống 1 cách thẳng thắn, biết
yêu thương, biết căm ghét, dám nói lên những điều chướng tai gai
mắt , dám đấu tranh và không sợ thất bại. Và cái “bọn chuột
bạch” chúng tôi có khi cả năm không gặp nhau, có khi vài năm, có
khi cả chục năm, nhưng giữa chúng tôi luôn có những tình cảm gắn
kết như anh em trong nhà, chúng tôi nhận ra nhau có khi chỉ từ
cách nói chuyện, cách làm việc, cách mà chúng tôi ứng xử với
cộng đồng v.v.
Chúng tôi đã lớn lên với cả 2 bán cầu não TRÁI và PHẢI.
6. Giấu Tên, Trưởng phòng, Hà Nội, học sinh khóa 3 - 1980
(khóa đầu tiên học toàn bộ cấp 1, 2, 3)
Để đến bây giờ, sau khi học đại học
tại đại học Tổng hợp Hà nội, học thạc sĩ ở Châu Âu và đang là
trưởng phòng tại một công ty nuớc ngoài nhưng tôi cho rằng mọi
thành đạt tôi có được ngày hôm nay là do những gì tôi tiếp thu
được ở trường Thực Nghiệm. Và cao hơn thế nữa những gì tôi học
được ở trường giúp tôi biết sống một cuộc sống có ý nghĩa. Tôi
biết yêu thương con người, sống nhân hậu, có lòng trắc ẩn. Tôi
biết quý các giá trị tinh thần, yêu sách vở âm nhạc, cảm nhận
được những điều đẹp đẽ xung quanh tôi. Biết vươn lên trước khó
khăn, trăc trở.
Có lẽ những gì tôi có được hình thành
từ những bài giảng đầy say mê của các thầy cô trong 11 năm, từ
sự cảm nhận về tấm lòng yêu quý học sinh của thầy cô. Tôi vẫn
nhớ cô Oanh đã hát chèo cho chúng tôi nghe khi giảng về nghệ
thuật dân tộc, cô Tuyết đã say mê kể về lần về thăm mộ cụ Nguyễn
Du khi giảng về truyện Kiều. Tôi vẫn nhớ thầy Mai đã tận
tình bồi dưỡng Toán cho chúng tôi đến 7 giờ tối, cả thầy và trò
say sưa giải toán quên cả giờ về. Có lẽ thầy Mai cũng nhớ chúng
tôi, lứa học sinh thông minh của thầy. Tôi nhớ thầy Thắng ôm đàn
arcordeon đệm đàn cho chúng tôi hát và múa Đếm sao. Tôi nhớ về
sự hối hận đầu tiên của tôi khi đã vui mừng vì được nghỉ học đột
xuất giờ học Hóa và sau đó thì biết tin là Thày Tuấn dạy Hóa đã
bị tai nạn giao thông và qua đời.
Tôi nhớ ngôi trường cũ thường bị
ngập mỗi khi trời mưa, nhớ về những tấm chăn Nam định mà chúng
tôi phải co kéo nhau mỗi khi ngủ trưa, nhớ giọng cô Nga (dạy
Nga) kể chuyện Bà chúa Tuyết cho chúng tôi trước khi đi ngủ, nhớ
cô Bích (dạy vẽ) nhắc chúng tôi đắp chăn ngang bụng kẻo đau
bụng, vẫn nhớ về nhà bếp của cô Hòa với những nồi cơm to cùng
những tảng cháy ngon lành. Tôi vẫn nhớ những quyển giáo trình
khổ A4, giấy đen chứa đựng tâm huyết của thầy cô.
Với tôi đó là những năm tháng hạnh
phúc, những năm tháng đẹp đẽ hình thành nên nhân cách. Và tôi
biết ơn trường, biết ơn thầy cô giáo cũ.
Bây giờ khi con tôi đã 6 tuổi
(2008) thì tôi cũng chỉ mong cháu được vào học ngôi trường như
tôi đã học, để các thầy cô dạy dỗ cháu trở thành một công dân
tốt, phát triển được khả năng, sống mạnh mẽ, tự lập, có tâm hồn
và biết cảm nhận cuộc sống. Như thầy cô đã dạy chúng tôi, giúp
chúng tôi vững bước trong cuộc đời đầy khó khăn.
Trường Thực Nghiêm là tình yêu vĩnh
cửu của tôi. Và bây giờ tôi truyền tình yêu đó sang con gái tôi.
7.
Lê Minh Ngọc, Trưởng biên tập, TP. HCM, học sinh khóa 3 -
1980 (khóa đầu tiên học toàn bộ cấp 1, 2, 3)
Thày Hồ Ngọc Đại cùng các thày cô tâm huyết đã cho ra đời những
“sản phẩm” rất giống với chính con người thày. Là chúng tôi:
những người không ngại đi đầu, không sợ cái khó cái mới, và
không thích lẫn vào đám đông.
8.
Trần Hải Châu, chuyên gia dự báo và quản lý chiến lược
Công nghệ và Sáng tạo, Paris, học sinh khóa 6 – 1983 (học cả 3
cấp tại TN)
Ấn tượng sâu đậm nhất về CNGD TN của tôi là từ năm 1983 đến
khoảng 1989 (hết cấp 1). Sau năm 1989, tư tưởng “Thực Nghiệm”
còn lại ở một số thày cô tâm huyết chứ không còn một “tư tưởng”
chung bao trùm nữa.
Vâng, đối với tôi đi học thực sự là hạnh phúc. Điều đáng ghi nhớ
nhất là từ lớp 1, mỗi học sinh được tiếp xúc với nhiều giáo
viên, mỗi giáo viên chuyên sâu về một môn học, họ yêu môn học đó
và cố gắng truyền tình yêu đó cho học sinh.
Tôi cảm nhận được tình yêu đó, và vì thế nên tôi yêu tất cả các
môn học, tìm hiểu và làm bài tập vì hứng thú và vì cảm thấy mình
tiến bộ trong khả năng nhận biết.
Việc đánh giá một cách tương đối (theo mức A, B,C, D) và không
xếp hạng thực sự cho tôi điểm mốc để cố gắng với chính mình, để
hiểu và diễn đạt tốt hơn, chứ không phải để so sánh với bạn
khác.
Việc một chương trình giáo dục không thích hợp với chương trình
thi luôn được xem như là một vấn đề nghiêm trọng của chương
trình Thực Nghiệm. Theo tôi, đó cũng là một vấn đề của chương
trình thi cử tại Việt Nam. Nếu thực sự mục đích của cha mẹ là
cho con cái được phát triển về trí tuệ và tâm lý để có đủ khả
năng tự lập và tự tìm lấy môi trường của mình, thì điều quan
trọng đâu phải là chọn cho con mình chương trình giáo dục giống
với chương trình thi nhất?!
Là phụ huynh, tôi muốn gửi cháu tới nơi nào cháu có nhiều cơ hội
để khám phá sở thích và khả năng của bản thân nhất.
9.
Tạ Dịu Thương, giảng viên Luật quốc tế, TP. HCM, học
sinh khóa 7 - 1984 (học đến hết lớp 9)
Kỷ niệm lớn nhất của tôi về quyền tự do được phát triển cái
Tôi (dưới mái trường TN) chính là bài văn bình thơ của Bà
huyện Thanh Quan… lạc đề mà vẫn được cô Phú Bình cho điểm cao,
chỉ vì nó phản ánh được Cảm nhận văn thơ của chính Tôi. Ở một xã
hội nơi cái Tôi được phát triển đúng đắn, cái Chúng ta sẽ đa
dạng và vững trãi hơn nhiều. Đó chính là điều tôi tâm đắc nhất,
và nếu được tôi sẽ chọn cho con cái mình một mô hình đào tạo
kiểu này!
Khóa 7 của tôi đều học TN cho đến hết lớp 9 sau đó chuyển sang
các trường khác. Trong đó nhiều bạn đọat huy chương các môn,
nhất là Olympic tiếng Nga, và đều “đậu “vào những trường cấp 3
có tiếng, như Chu Văn An, Hà Nội-Amsterdam, Lý Thường Kiệt… Cả
lớp cũng chỉ có một bạn duy nhất không đỗ đại học. Kết quả này
là câu trả lời tốt nhất rồi đó!
Có lẽ một trong những lý do “thất bại” của mô hình TN là nó quá
sớm so với thời đại đó, khi đất nước mới ra khỏi bao cấp và nhu
cầu mới chỉ là ăn no-mặc đủ, chứ làm gì đã tới được… giáo dục
chất lượng cao! Những khúc mắc khác thì tôi khó lòng đánh giá
được vì nó vô vàn, giáo dục và phi-giáo dục. Nhưng tôi thấy
những mô hình gọi là “trường quốc tế” đang nở rộ ở SG bây giờ
cũng theo đúng hướng mô hình TN tôi được học trước đây, chỉ có
điều là số tiền phụ huynh phải bỏ ra thật… một trời một vực. Còn
mô hình “giống với chương trình Bộ phát hành” đang “gặt hái
thành công”… tiếp tục cải cách thì tôi thật sự thất vọng.
Liệu giáo dục VN có đang đi vòng để đến đích không?
|
© Thời Đại Mới
Trở về trang chủ Thời Đại Mới
19-4-09 |