thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN

 

Số 19  - Tháng 7/2010

 


 

Tranh chấp Biển Đông Nam Á:
đi tìm giải pháp hòa bình và công lý
dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế

Vũ Quang Việt

 

 Mục Lục

Tóm tắt phương pháp luận và kết quả chính của nghiên cứu..

 

Phần I.  Bối cảnh: sự trỗi dậy của một cường quốc quân sự

Sự quan trọng của Biển Đông Nam Á đối với khu vực và thế giới

Trung Quốc chưa bao giờ có chủ quyền trên Biển Đông Nam Á

Thế chiến thứ hai, đề quốc Nhật và ý đồ kiểm soát biển Đông Nam Á

Trung Quốc từ ý đồ sở hữu Hoàng Sa và Trường Sa

Mỹ đứng ngoài tranh chấp?

Chiến lược gậm nhấm chờ thời của Trung Quốc

Từ chờ thời đến biểu dương sức mạnh quân sự

Và đằng sau đề nghị hợp tác

Tham vọng kiểm soát biển Đông Nam Á

Phần II. Xem xét lại những yêu sách dựa trên “chủ quyền lịch sử”

Mục tiêu của phần II

 

A. Những yêu sách của Trung Quốc

1. Bằng chứng phải là chính sử, tài liệu chính thức của nhà nước trung ương

2. Chứng cứ hành xử chiếm đóng thường trực, dài lâu trước Việt Nam?

B. Yêu sách chủ quyền của Việt Nam

1. Yêu sách về quần đảo Paracels và chứng cứ lịch sử

2. Yêu sách về quần đảo Spratlys (Trường Sa) và chứng cứ lịch sử

Bắc Hải có phải là Trường Sa không?

Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ có thể dùng làm chứng cứ?

Lý do kinh tế và các lợi ích khác để vua chúa nhà Nguyễn kiểm soát Trường Sa? 

Cuộc vận động chính phủ Pháp bảo vệ chủ quyền Việt Nam ở Paracels

Hoạt động của người Hoa và Nhật ở đả Woody (Phú Lâm)

Thái độ của chính phủ Pháp về chủ quyền trên Paracels và Spratlys

Pháp làm gì ở Paracels sau khi tuyên bố chủ quyền năm 1933?

Nhật và Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa)

Phần III.  Bối cảnh: Đi tìm giải pháp hòa bình và công lý

Về quần đảo Paracels (Hoàng Sa): giải pháp song phương

Về quần đảo Spratlys (Trường Sa): giải pháp đa phương ba bước

 

Phụ Lục. Biên niên sử liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa và chú giải

 


 

Tóm tắt phương pháp luận
và kết quả chính của nghiên cứu

 

Bài viết này không còn là bản nháp, nhưng vẫn chỉ có thể coi là bản đúc kết tạm trong quá trình nghiên cứu về một vấn đề rất phức tạp. Như bất cứ một nghiên cứu mang tính khoa học nào, nó dựa trên các thông tin hiện có và các sự kiện được giới chuyên gia đánh giá là đáng tin cậy, và như thế trong tương lai khi có thêm các thông tin được đánh giá là đáng tin cậy, các đúc kết tạm ở bài này có thể thay đổi.

Bài viết này dựa trên quá trình nghiên cứu của tác giả được trình bày và trao đổi tại hai hội thảo về tranh chấp Biển Nam Trung Hoa (mà tác giả đề nghị nên gọi là biển Đông Nam Á), đã được trình bày ngày 18 tháng 11 năm 2009 tại Council on Southeast Asian Center, Yale University và ngày 25 tháng 3 năm 2010 tại Center for Vietnamese Philosophy, Culture, & Society, Temple University.

Tác giả cám ơn Giáo Sư Ngô Vĩnh Long và Giáo sư Trần Hữu Dũng đã đóng góp nhiều ý kiến cũng như tham gia tổ chức các cuộc hội thảo trên. Thời gian sau hai Hội thảo trên, tác giả cũng nhận được nhiều ý kiến và thông tin mới từ nhiều người, đặc biệt là bạn Nguyễn Tuân ở Ý và Dương Danh Huy ở Anh, Hồ Bạch Thảo ở Mỹ, Nguyễn Ngọc Giao ở Pháp qua đó tác giả đã điều chỉnh lại những sai sót trước đây. Mới nhất tác giả cũng tiếp cận được thêm một vài nghiên cứu (chưa phải hết) của anh Phạm Hoàng Quân ở Việt Nam, và cố gắng đưa vào bài này. Cũng xin cám ơn cô Phương Loan ở Vietnamnet đã giúp dịch bài tiếng Anh mà tác giả trình bày ở Temple University để sử dụng trong bài viết này. Tuy vậy phải nói những đúc kết trong bài viết là ý kiến riêng của tác giả, không một ai trong những người được nêu tên ở trên có trách nhiệm gì về chúng, thậm chí có người còn không đồng ý. 

Bất cứ một cuộc tranh chấp nào mang tính quốc gia đều nhạy cảm. Người viết có thể chọn quan điểm của quốc gia mình để trình bày và diễn dịch sự kiện nhằm ủng hộ chủ quyền của nước mình và bác bỏ sự kiện và diễn dịch của nước khác. Cách tiếp cận này ở mức độ tốt nhất vừa đòi hỏi việc sưu tầm sự kiện chính xác, có nguồn gốc rõ ràng, vừa tìm cách sử dụng công pháp quốc tế nhằm thuyết phục người đọc, dư luận quốc tế, coi họ như những ông quan tòa có tri thức, sẵn sàng tìm hiểu sự việc và không thiên vị. Dù thế nào thì cách tiếp cận như vậy cũng không khách quan vì người viết sẽ chỉ trưng ra những cái có lợi cho mình và đào sâu vào những cái bất lợi cho địch. Cho đến nay, không có quyển sách nào vượt hơn được quyển sách Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands của bà luật sư Monique Chemillier-Gendreau, gồm nhiều tài liệu đáng tin cậy, lập luận chặt chẽ dựa vào công pháp quốc tế, có lợi cho Việt Nam. Bà Chemillier viết có thể dưới tư cách một người bạn Việt Nam, một người vì công lý hoặc cũng có thể coi là với tư cách một luật sư bảo vệ khách hàng của mình. Trước tòa án công lý, có thể bà ấy sẽ thắng nhiều điểm cho Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề tranh chấp hiện nay đâu chỉ liên quan đến luật, mà thực chất là cuộc tranh chấp quyền lực ngày càng đi dần đến bạo lực ở mức độ dữ dội hơn, làm mất an ninh của khu vực và có thể của thế giới, và trước tiên là an ninh của Việt Nam. 

Có cách tiếp cận khác mà tác giả đã chọn lựa khi nghiên cứu về cuộc tranh chấp này, đó là cố gắng tiếp cận vấn đề và tài liệu một cách khách quan, ít nhất là dưới nhãn quan của một người trong khu vực Đông Nam Á, với hy vọng là cuộc tranh chấp ở biển Đông Nam Á (ĐNA) được giải quyết hòa bình và hợp lý trên cơ sở chứng cứ lịch sử và công pháp quốc tế.

Xin nói qua về nguyên tắc tác giả áp dụng khi nghiên cứu. Đó là việc dùng cùng một hệ tiêu chuấn để đánh giá yêu sách của mọi nước đối với đảo và biển ở biển ĐNA. Những tiêu chuẩn này, nếu được tòa án sử dụng để tài phán vấn đề tranh chấp, có thể gia giảm tùy theo điều kiện cụ thể đã xảy ra để đạt được sự công bằng, tuy vậy việc gia giảm này sẽ không được đề cập tới trong bài viết này. Hệ tiêu chuẩn đánh giá gồm mấy điểm sau:

  1. Hành động xác định chủ quyền phải là hành động của nhà nước trung ương đại diện quyền lực quốc gia.

  2. Chứng cứ lịch sử quan trọng nhất phải là chính sử, rồi mới đến sử liệu viết về hành động của nhà nước trung ương đại diện quyền lực quốc gia. Loại thứ hai dù đáng tin cậy cũng là chứng cứ thứ yếu.

  3. Tất cả mọi sử liệu phải có nguồn gốc rõ ràng nhằm xác định độ tin cậy của chúng. 

Ba tiêu chuẩn trên là dựa trên các điểm chính sau của công pháp quốc tế:

  1. Tuyên bố chủ quyền phải là hành động công khai của quốc gia đại diện bởi nhà nước trung ương. Chúng không thể chỉ là hành động của một chính quyền địa phương.

  2. Chủ quyền phải thể hiện ý chí thực hiện chủ quyền và các hành động phô trương liên tục chủ quyền này.

  3. Tuyên bố chủ quyền không bị nước khác phản đối vào thời điểm tuyên bố chủ quyền.

  4. Chủ quyền không thể được xác lập bằng hành động xâm chiếm bạo lực hay đe dọa dùng võ lực.

  5. Chủ quyền không thể vin vào cớ có sở hữu “biển lịch sử” vì điều này không tồn tại trong luật pháp quốc tế hiện đại.

  6. Im lặng khi quốc gia khác tuyên bố chủ quyền có thể coi đồng nghĩa với đồng ý. 

Xin đưa ra vài thí dụ về cách tiếp cận trên.

Một là chính sử Trung Quốc không nói gì về Hoàng Sa và Trường Sa, không những thế chính sử Trung Quốc cho đến Thanh Sử đều ghi cương vực Trung Quốc chấm dứt ở đảo Hải Nam. Vậy thì Trung Quốc không thể kết luận rằng các quần đảo này thuộc Trung Quốc từ ngàn xưa.

Cũng thế, tác giả phải xem xét chính sử Việt Nam theo cùng một tiêu chí. Chính sử Việt Nam chỉ nói rõ về Hoàng Sa (ở mức độ nhất định vì đi vào chi tiết lại phức tạp là Hoàng Sa gồm địa điểm nào). Có người cho rằng dưới con mắt người Việt, Hoàng Sa bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, dù hai quần đảo này cách nhau trên 600km (dựa vào hai đảo nhỏ có khoảng cách gần nhất) và Trường Sa rất xa bờ biển Việt Nam (gần nhất là 460km, gần gấp đôi khoảng cách 250km, là khoảng cách gần nhất từ giữa đất liền và Hoàng Sa). Hai vùng này lại chỉ là những chấm cực nhỏ gồm phần nhiều là đá ngầm, bãi san hô rất nguy hiểm cho tàu bè trong một khu biển rộng lớn. Toàn diện tích đất đá ở Trường Sa cộng lại chỉ có 5km2 so với vùng biển mênh mông chúng chiếm vị trí, rộng ít ra cũng đến 640.000km2.[1] Điều khẳng định của Việt Nam về chủ quyền Trường Sa rõ ràng cần chứng minh. Bản đồ do Giám mục Taberd, người đã vẽ và xuất bản bản đồ Việt Nam năm 1838 một thời gian ngắn sau khi vua Gia Long tuyến bố chủ quyền năm 1816, cho thấy nó là một khu và rất có thể chỉ là Hoàng Sa.  Nguồn tài liệu thứ hai là Phủ biên Tạp Lục (PBTL). Đây là tài liệu cổ nhất đáng tin cậy ghi lại hành động của chúa Nguyễn trước thời vua Gia Long, là tài liệu duy nhất nói về phía Nam (tất nhiên không kể những tài liệu lập lại ghi chép trong PBTL). Tài liệu này có nói hoạt động của Đội Hoàng Sa do chúa Nguyễn  lập ra, gửi về phía nam, đến Côn Lôn và Bắc Hải. PBTL không phải chính sử, như vậy là chứng cứ thứ yếu so với chính sử. Kế đến ta phải xem xét PBTL viết gì.  Côn Lôn không phải nằm trong khu Trường Sa. Bắc Hải thì không biết nó ở đâu. Vậy dù có dùng PBTL là chứng cứ thì phải xác định được thực sự PBTL có nói đến Trường Sa không. Có một số tài liệu khác mà tôi không nhắc đến ở đây vì cũng có vấn đề minh bạch nguồn gốc. Vì vậy mà tôi nói chứng cứ lịch sử trên chưa thể đưa kết luận là chúa Nguyễn và nhà Nguyễn sau này có đến Trường Sa hay không và với một vùng mênh mông thế thì nhà Nguyễn đã đặt chân và kiểm soát tới đâu.  Vạch ra như vậy để các sử gia Việt Nam làm rõ thêm hồ sơ chứng cớ.

Thí dụ thứ hai là khi đánh giá giá trị hành động của một uy quyền thì phải xem xét tư cách của uy quyền đó.  Năm 1909, không thể nói Trung Quốc tuyên bố chủ quyền khi việc tuyên bố đó là hành động của một chính quyền cát cứ ở tỉnh Quảng Đông, lúc đó Trung Quốc chia năm xẻ bảy dù nhà Thanh vẫn tồn tại đến năm 1912. Cũng thế, không thể coi hoạt động từ năm 1921 và sau đó là tuyên bố chủ quyền của Toàn Quyền Đông Dương trên Hoàng Sa và Trường Sa là chính thống mà phải kể năm 1933 là thời điểm cơ sở khi nhà nước Pháp tuyên bố chủ quyền. 

Về Hoàng Sa

Tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Paracels (Hoàng Sa) chỉ liên quan đến Việt Nam và Trung Quốc và do đó hai nước cần ngồi lại thương thảo hoặc yêu cầu Tòa án Công Lý Quốc tế phân xử hay qua trọng tài quốc tế. Việt Nam dưới thời chúa Nguyễn và thời vua Gia Long và Minh Mạng đã khẳng định chủ quyền ở đây, với đầy đủ bằng chứng lịch sử được ghi trong chính sử của nhà nước và được người phương tây sống cùng thời ghi nhận qua sách vở được xuất bản. Tuy nhiên vì lo chống Pháp, vua quan Việt Nam đã có thời bỏ lơ, không hành xử chủ quyền như trước. Khi Pháp chiếm Việt Nam, cũng có một thời gian Pháp lơ là không hành xử đúng mức để bảo đảm chủ quyền của Việt Nam ở đó. Thời gian lơ là này (ít nhất từ năm 1902 trở đi) đã để ngỏ đảo Woody (Phú Lâm) như đất vô chủ cho tư nhân người Hoa và người Nhật vào khai thác phốt phát vì có lẽ Pháp coi những hòn đảo này là không quan trọng. Khi chính quyền cát cứ ở Quảng Đông tuyên bố chủ quyền năm 1909. Pháp cũng không phản đối ngay vì có thể họ coi đó là hành động của chính quyền địa phương không đáng để ý.

Sau đó năm 1932, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc trong công hàm gửi Bộ Ngoại Giao Phápđã cho rằng Hoàng Sa là của Trung quốc dựa trên hai lập luận. Thứ nhất, họ cho rằng Hiệp định Pháp Thanh năm 1887 phân chia biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Bộ (Tonkin) trên cơ sở đảo đường kinh tuyến tây 105°43’ của Paris thuộc An Nam và đảo phía đông như Hoàng  Sa là thuộc Trung Quốc. Thứ hai về mặt lịch sử họ cho rằng Việt Nam trước khi Pháp tới là chư hầu của Trung Quốc nên các đảo đó cũng thuộc Trung Quốc. Điểm thứ hai vô lý vì lúc đó Việt Nam thuộc Pháp, và trước đó Việt Nam cũng không chấp nhận là một phần của Trung Quốc. Điểm thứ nhất cũng không có cơ sở lý luận vì quần đảo Paracels nằm ở Trung Phần, không thuộc Bắc Bộ (Tonkin), không phải là khu vực nằm trong nội dung Hiệp ước Pháp Thanh.[2] Hiện nay Trung Quốc đã thay đổi cách lập luận so với năm 1932, có thể nói là phản lại nguyên tắc bất hồi tố. Lập luận đòi chủ quyền mới của Trung Quốc hoàn toàn dựa trên bằng chứng lịch sử mà chính quyền Trung Quốc và học giả Trung Quốc tìm đủ mọi cách chứng minh một cách không thuyết phục là cả ngàn năm Hoàng sa (Paracels) và cả Trường Sa (Spratlys) là đất Trung Quốc. 

Mãi đến năm 1933, chính phủ Pháp ở Paris mới chính thức tuyên bố chủ quyền do áp lực của dư luận ở thuộc địa Việt Nam gồm cả người Pháp lẫn người Việt. Tuy vậy Trung Quốc đã dùng bạo lực để chiếm cứ đảo Pattle (Hoàng Sa) vào năm 1974. Mặc dù có những vấn đề khúc mắc cần thương lượng giữa hai nước, việc Trung Quốc chiếm cứ bằng bạo lực đảo Pattle (Hoàng Sa) không những không được người Việt Nam chấp nhận mà công pháp quốc tế cũng không chấp nhận. Dù sao vấn đề Hoàng Sa là vấn đề cần thương thảo giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Cho đến nay Trung Quốc từ chối ngay cả đàm phán song phương, như họ đã từ chối đàm phán với pháp ba lần (1932, 1937, 1947). Chỉ có thể hiểu được là Trung Quốc không đủ bằng chứng nên sợ thua và việc chấp nhận một giải pháp hòa bình nào đó sẽ ngăn cản Trung Quốc tiếp tục dùng bạo lực để kiểm soát Biển ĐNA trong tương lai.

Về Trường Sa (Spratlys) và một cái nhìn toàn cục

Trường Sa là một vùng biển rộng lớn nhưng lại gồm toàn đá ngầm và một số đá nổi, bãi cát, và hòn đảo đá nhỏ bé. Lớn nhất là đảo Itu Aba (Ba Bình) cũng chỉ có diện tích 0,5km2. Vùng này không nằm trong hải trình thuyền bè ngày xưa đi lại vì được coi là vùng đá ngầm đáng khiếp sợ cần tránh xa. Đây cũng là vùng có rất ít người lui tới, nếu có thì đôi khi vài người đánh cá, nên trong quá khứ không ai coi là quan trọng. Trước chiến tranh thứ hai, đế quốc Nhật nhăm nhe dùng khu vực làm căn cứ hải quân nhằm kiểm soát vùng biển ĐNA nên năm 1933 Pháp mới quyết định tuyên bố chủ quyền trên cơ sở đây là vùng đất vô chủ chứ không trên cơ sở đây là vùng đất thuộc Việt Nam, Nhật là nước duy nhất phản đối.

Trung Quốc im lặng trong 18 năm, coi như không phản đối. Trung Quốc chỉ chính thức yêu sách chủ quyền vào 15 tháng 8 năm 1951 qua tuyên bố của Ngoại trưởng Trung quốc Chu Ân Lai là Hoàng Sa và Trường Sa luôn luôn là lãnh thổ Trung Quốc.[3] Việc tuyên bố này vừa là bắt chước Tưởng Giới Thạch khi Tưởng ra tước võ khí Nhật và chiếm đảo Itu Aba (ở Trường Sa) năm 1946, vừa có thể là nằm trong ý đồ của thế giới Cộng sản do Liên Xô lãnh đạo lúc đó, muốn làm chủ Biển ĐNA, và do đó muốn Trung Quốc làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa.  Chắc là có sự đồng ý giữa Liên Xô và Trung Quốc nên chỉ sau đó một tháng, vào ngày 19 tháng 9 năm1951, Ngoại trưởng Liên Xô đưa ra 13 đề nghị tu chính Hòa ước với Nhật đang được bàn thảo tại San Francisco, trong đó điểm đầu là đòi hỏi Nhật Bản thừa nhận chủ quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa “đối với quần đảo Paracels và các quần đảo ở phía nam.” Tu chính này đã bị Hội nghị Quốc tế tại San Francisco bác bỏ với tỉ số phiếu 48-3.[4]  Như vậy tuyên bố của Chu Ân Lai đánh dấu lần đầu tiên Trung Quốc chính thức lên tiếng yêu sách về Trường Sa, 18 năm sau khi Pháp tuyên bố chủ quyền. Nói tóm lại nghiên cứu này cho thấy Trung Quốc không có cơ sở lịch sử hay pháp lý để yêu sách Trường Sa vì chính sử thời Minh và Thanh đều ghi lãnh thổ Trung quốc chấm dứt ở đảo Hải Nam. Những đảo mà Trung Quốc hiện đang chiếm giữ hoàn toàn là do dùng bạo lực, chiếm của Việt Nam hay của Phi Luật Tân, cũng ngược với công pháp quốc tế.

Mới đây Trung Quốc lại dùng bản đồ chữ U trên Biển ĐNA do một viên chức của chính phủ Tưởng Giới Thạch tự vẽ năm 1947 để chính thức yêu sách 80% vùng biển Đông Nam Á và coi đó là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc, là tương đương với Đài Loan và Tây Tạng, mà họ sẵn sàng dùng võ lực để bảo vệ nó.[5]

Yêu sách này đi ngược với ước vọng hòa bình và hợp tác của các nước trong khu vực ĐNA và trên thế giới. Chính sự tranh chấp giữa các nước ĐNA trên vùng đảo Trường Sa với nhau mà thiếu đàm phán đa phương đã làm suy yếu tổ chức ASEAN trong việc bảo vệ hòa bình khu vực, nhằm đối phó với tham vọng của Trung Quốc ở Biển ĐNA.

Dù thế nào, Pháp tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ Trường Sa đã tạo ra một số vấn đề rất phức tạp như sau:

 

·    Khu vực Trường Sa bao gồm có cả đảo đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines theo Luật biển Liên Hợp Quốc 1982. Đây là lý do Phi không thể chấp nhận tuyên bố của Pháp năm 1933. Thêm một lý do nữa là lúc Pháp tuyên bố chủ quyền, Phi, Mã Lai v.v. lại chưa phải là những nước độc lập để có tiếng nói.

·    Pháp lấy lý do Trường Sa là đất vô chủ để tuyên bố chủ quyền năm 1933 thì điều này không hoàn toàn đúng vì Anh là nước đã tuyên bố chủ quyền trước Pháp ở vài hòn đảo trước đó. Năm 1877, chính quyền thuộc địa Anh ở đảo Labuan (một đảo nhỏ, phía bắc Borneo, do Anh mua lại của Brunei năm 1846) đã cấp giấy phép cho một nhóm doanh nhân và cho phép họ cắm cờ Vương quốc Anh lên đảo Spratly (Trường Sa) và đảo Amboyna Cay (An Bang) để hoạt động thương mại. Hai đảo này đã được đăng ký là lãnh thổ Vương quốc Anh trong những hồ sơ chính thức.[6]  Lúc đó Anh không chính thức phản đối Pháp vì nhu cầu chống Nhật. Điều viết ra ở đây chỉ nhằm nói tới sự phức tạp của vấn đề chứ không ảnh hưởng gì đến tính hợp pháp về tuyên bố chủ quyền của Pháp.

·    Pháp chỉ ghi có 6 đảo, đá ở Trường Sa trong tuyên bố chủ quyền năm 1933[7]. Thực chất là Trường Sa có đến khoảng 170 điểm tự nhiên, với 36 đảo, đá nhỏ tí nhô lên mặt nước, và các bãi cát, v.v.[8] nên ngay việc định nghĩa và xác định nơi cụ thể đã có vấn đề, và hiện nay các chuyên gia vẫn đưa ra các con số khác nhau về các điểm tự nhiên. Vậy chỉ một tuyên bố, liệu Pháp có quyền làm chủ cả những nơi họ chưa biết tới?  

·   Pháp cũng không có đủ tài lực thực hiện chủ quyền trên một vùng biển rộng lớn như thế cho nên Pháp chỉ có thể kiểm soát được đảo Itu Aba là đảo lớn nhất vào năm 1938, sau đó đảo này bị Nhật chiếm. Sau khi Nhật đầu hàng, Chính phủ Trung Hoa Dân quốc (bây giờ là Đài Loan) lợi dụng cơ hội được đồng minh giao tước võ khí Nhật ở miền bắc Việt Nam (phiá bắc vĩ tuyến 16) đã chiếm Itu Aba. Chính qua cuộc chiếm đóng năm 1946 này, Đài Loan lần đầu tiên đã tuyên bố chủ quyền trên Trường Sa.  

·    Các đảo đá khác quá nhỏ (trừ Itu Aba) nên bỏ ngỏ.

·    Sau khi Pháp thua trận ở Điện Biên phủ, Việt Nam Cộng hòa được Pháp chính thức giao lại Hoàng Sa vào tháng 4 năm 1956.  Còn Trường Sa cho đến nay Pháp vẫn chưa chính thức trao trả cho Việt Nam (coi nguồn thông tin ở Phụ Lục).  Tuy nhiên Việt Nam Cộng Hòa coi mình có quyền tiếp nối chủ quyền của Pháp nên cùng thời gian trên gửi quân chiếm một số đảo ở Trường Sa. Các nước khác trong vùng ĐNA cũng tuyên bố chủ quyền và ra sức chiếm những nơi không người.

·    Trung Quốc là nước duy nhất dùng bạo lực để chiếm đảo của Việt Nam vào năm 1978.

Vấn đề phức tạp nhất mà bất cứ một tòa án nào cũng phải xem xét ngoài thực tế phức tạp vừa nói trên còn là hai câu hỏi:

 

·    Liệu một đế quốc hùng mạnh như Pháp có sức đe dọa nhiều nước kém phát triển ở ĐNA đang bị nước ngoài chiếm đóng mà chỉ một câu tuyên bố chủ quyền ở một vùng đất vô chủ là có thể có quyền, dựa theo luật pháp quốc tế,  làm chủ tất cả các hòn đảo ở Biển ĐNA, nhất là khi chính Pháp không đủ sức thực hiện quyền làm chủ chúng ở mọi nơi, và lại bị Nhật phản đối?

·    Lợi ích sẽ được định như thế nào trên một khu vực rộng lớn mà kết cấu hầu hết là đá? Ngay cả Itu Aba là “hòn đảo” to nhất cũng chưa chắc đã đủ tư cách pháp lý để được coi là đảo. Và dù được coi là đảo, dựa vào các tiền lệ xử án của Tòa án Quốc tế đảo này cũng có thể sẽ không có hoặc sẽ bị hạn chế quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vậy thì dù có chủ quyền, lợi ích có thể có ở các đảo đá này cũng có thể rất nhỏ. Và trước hết, lợi ích này cũng không thể thực hiện được khi chưa có giải pháp.   

Việt Nam có thể lập luận là có quyền thừa kế pháp lý các yêu sách chủ quyền của Chính phủ Pháp tuyên bố năm 1933, tuy nhiên điều này sẽ không bao giờ đưa đến một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột ở Biển Đông vì sẽ không được các nước khu vực công nhận. Điều này dễ thấy trong bối cảnh phức tạp nêu trên.

Trước tình hình tranh chấp giữa các nước ASEAN ở vùng Biển ĐNA, Trung Quốc là ngư ông thủ lợi, mua chuộc chia rẽ nội bộ Tổ chức ASEAN, từ đó dùng bạo lực tiến tới chiếm đoạt các đảo đá do Việt Nam rồi sau đó là đảo do Phi chiếm đóng. Đến nay thì rõ, Trung Quốc đâu chỉ muốn chiếm đoạt mấy hòn đảo, họ thật sự muốn thiết lập quyền kiểm soát trên toàn bộ Biển ĐNA kể cả bằng bạo lực. Vậy thì liệu tranh chấp các đảo giữa các nước ĐNA có ích gì?  Các nước ĐNA, kể cả Việt Nam, có nắm được vài hòn đá cũng không thể khai thác tài nguyên chung quanh vì sự đe dọa bạo lực của Trung Quốc và chi phí bảo vệ để khỏi bị tấn công cũng là gánh nặng cho nền kinh tế các nước ASEAN liên quan. Hơn nữa các nước trong khối ASEAN đang chiếm đảo còn không thỏa hiệp được với nhau thì làm sao có được một lập trường chung của ASEAN?

Tình hình Trường Sa phức tạp như vậy nên ngay cả khi đem vấn đề ra Tòa án Công lý, khi đạt được điều kiện là mọi nước có tranh chấp đều đồng ý, thì việc giải quyết hợp lý, công bằng cũng không đơn giản. Thí dụ dù tòa án có xét giao cho Việt Nam được tất cả các đảo ở Trường Sa thì tòa án may ra cũng chỉ cho phép một vài nơi được coi là đá chỉ có lãnh hải 12 dặm, không có vùng đặc quyền kinh tế. Được gọi là đảo khi nào tự nó có thể duy trì như nơi cư trú hay có đời sống kinh tế của con người ở thời điểm tuyên bố (tức là không phải thời điểm hiện nay, có thể tiếp tế từ xa). Rất nhiều đảo ở dạng tự nhiên thì chìm dưới nước khi nước thủy triều lên sẽ không được hưởng gì hết; luật pháp không chấp nhận các đảo nổi lên do công trình nhân tạo xây trên các điểm tự nhiên chìm dưới nước biển khi thủy triều lên.

Đàm phán đa phương chỉ thực hiện được khi Trung Quốc bỏ yêu sách biển nằm trong đường chữ U. Cuộc đàm phán này sẽ không đòi hỏi các nước tham gia đàm phán phải chấp nhận một điều kiện gì khác hơn là Công ước Quốc tế về Luật biển Liên Hợp Quốc năm 1982 (LBLHQ).  Việc bỏ qua quá khứ thực dân được nói đến ở trên hoàn toàn không phải là điều kiện. Tất nhiên cuộc đàm phán nào cũng phải xem xét đến hồ sơ của từng nước để đạt được công lý và công bình ở mức cao nhất.

 

Có 3 bước để triển khai.

Bước thứ nhất là phải quyết định tư cách của từng cơ cấu khi còn ở dạng tự nhiên trên Trường Sa, xem chúng là đảo, đá nổi, hay đá ngầm. Điều này sẽ giảm trừ vùng biển các nước có thể yêu sách. Bước thứ hai là xác định vùng không nằm trong khu tranh chấp để nước chủ quyền có thể khai thác. Bước thứ ba là xem xét ai có chủ quyền ở từng đảo, đá  và giải quyết tranh chấp các vùng chống lấn giữa các nước có chủ quyền.

Ba bước này vẫn không giải quyết được việc phân chia tài nguyên trong vùng nước quốc tế trên Biển ĐNA ở nơi không thuộc chủ quyền nước nào.

Do đó mà có thể có một giải pháp khác, thay vì xác định chủ quyền trên từng hòn đảo, đá thì phân chia lợi ích biển cho các nước trên cơ sở biên giới đất liền tiếp giáp với Biển ĐNA.  Hai giải pháp mới nói cũng có thể kết hợp để giải giải quyết vấn đề.

Suy nghĩ của tác giả là: nếu mọi nước đều quyết tâm cho rằng các đảo ở Trường Sa là của mình tất thì không có thể giải pháp. Trường hợp này, Trung Quốc sẽ chọc sâu vào nội bộ từng nước và cả tổ chức ASEAN, gây thêm mâu thuẫn, thậm chí biến vài nước thành đồng minh của họ trong vụ tranh chấp; mà kết quả có thể là Việt Nam và các nước khác sẽ mất hết nếu như Trung Quốc mạnh đủ để làm chủ bằng bạo lực. Do đó cần đặt vấn đề tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa trong bối cảnh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Nam Á về dài lâu và tôn trọng công lý, chứ không phải chỉ tập trung giành dật mấy hòn đá. Nếu các quốc gia trong khối ASEAN, đặc biệt là các nước có lợi ích biển, có cùng một quan điểm giải quyết vấn đề thì chắc chắn sẽ được thế giới lên tiếng ủng hộ và như thế Trung Quốc sẽ không dễ dàng dùng sức mạnh quân sự hù dọa hay chiếm đoạt. Do đó cần quốc tế hóa tranh chấp. Quốc tế hóa có 3 ý nghĩa:

  • Quốc tế hóa là đàm phán đa phương.

  • Quốc tế hóa còn có nghĩa là các quốc gia bị Trung Quốc đe dọa cần lôi kéo dư luận quốc tế về phía mình, chứng tỏ rằng mình biết điều, sẵn sàng tìm kiếm giải pháp hợp lý.

  • Quốc tế hóa có thể đi xa hơn thế: đó là quốc tế hóa cả biển và đảo để mọi người cùng chia sẻ, thay vì thuộc bất cứ nước nào.

 

Về nghiên cứu và tài liệu

 

Một thời gian rất dài, có lẽ mong muốn có hòa bình hoặc giải pháp với Trung Quốc nên nhà nước Việt Nam gần như cấm đoán nghiên cứu về Hoàng Sa và Trường Sa do đó việc tìm kiếm thông tin và huy động học giả trong nước nghiên cứu gần như không có, trừ quyển sách Cuộc tranh chấp Việt Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ông Lưu Văn Lợi chuyên gia Bộ Ngoại Giao Việt Nam được xuất bản khi quan hệ Trung Quốc và Việt Nam căng thẳng. Thời gian qua một số học giả trong và ngoài nước tự phát nghiên cứu. Một số công trình ở miền Nam trước đây như Tạp San Sử Địa in năm 1974 và nghiên cứu của ông Nguyễn Nhã cũng vừa mới được phổ biến, cung cấp thêm thông tin.  Một số công trình, đặc biệt là về cổ sử Trung Quốc, của Hồ Bạch Thảo ở Mỹ và Phạm Hoàng Quân ở Việt Nam, kết hợp với nghiên cứu của các tác giả phương tây đã cho phép kết luận là Trung Quốc không có chứng cứ lịch sử để khẳng định Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa) là thuộc Trung Quốc.

 

Có thể nói dựa vào bằng chứng lịch sử hiện có mà tác giả tham khảo được, ở Trường Sa, Trung Quốc hoàn toàn không có chứng cứ lịch sử nào để chứng minh Trường Sa là của họ. Còn những bằng chứng Việt Nam đưa ra để xác lập chủ quyền trên đảo Trường Sa, ở thời điểm này (tác giả nhấn mạnh), cũng chưa thể nói là "không thể tranh cãi được". Tất nhiên, kết luận này chỉ là kết luận tạm, và hi vọng rằng những luật gia, nhà sử học, nhà khảo cổ, sẽ tìm ra những bằng chứng rõ ràng hơn.  Bài này viết ra trong tình thần cầu thị đó.

 

Ngoài ra, lý luận rằng chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa hoàn toàn phù hợp với công pháp quốc tế vì quyền tiếp nhận chủ quyền của Pháp ở đó sau khi Pháp tuyên bố chiếm hữu vùng đất vô chủ này vào năm 1933 cũng là vấn đề không dễ được chấp nhận khi rất nhiều vấn đề phức tạp liên quan đã nêu ở bị bỏ qua, trong đó có một thực tế là các nước có quyền lợi ở đó đều bị thực dân đô hộ, và Pháp chỉ nêu tên 6 hòn đảo. Vả lại như đã nói, cuộc tranh chấp hiện nay đâu phải là cuộc đầu lý chỉ dựa trên sử liệu và luật pháp.   

 

Bài viết có Phần Phụ Lục là phần quan trọng. Nó bao gồm các thời điểm mà các sự kiện lịch sử quan trọng xảy ra để độc giả dễ theo dõi. Phụ lục cũng bao gồm nhiều phân tích quan trọng mà tác giả không thể đưa vào bài chính.

 


 

 

Phần I

Bối cảnh: Sự trỗi dậy
của một cường quốc quân sự

 

Sự quan trọng của Biển Đông Nam Á đối với khu vực và thế giới

Không có gì có thể gây khó khăn cho sự phát triển một cách hòa bình của khu vực Đông Nam Á và toàn bộ lục địa châu Á hơn là sự can dự tích cực của quyền lực Trung Quốc tại biển Nam Trung Hoa. Vùng biển này có lẽ nên gọi là Biển Đông Nam Á (SEAS)[9] thì thích hợp hơn, vì nó là trung tâm của khu vực Đông Nam Á và các hoạt động hàng hải kết nối các nước trong khu vực Đông Nam Á, Bắc Á, ra biển Thái Bình Dương, các lục địa Ấn Độ, Trung Đông, Châu Phi và Châu Âu. Phần lớn hoạt động thương mại toàn cầu (khoảng 90% khối lượng) qua vận chuyển bằng đường biển và đường biển trên biển ĐNA vô cùng quan trọng đối với các dòng chảy thương mại này. Eo biển Malacca giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì nó cung cấp các tuyến đường ngắn nhất giữa Ấn Độ Dương và biển ĐNA, và được sử dụng bởi hơn 70.000 tàu chở hàng năm, chuyên chở hơn 15 triệu thùng dầu trong năm 2006 và ước tính khoảng một phần ba thương mại thế giới. Biển ĐNA là rất quan trọng đối với mỗi quốc gia trong khu vực, đặc biệt đối với Nhật Bản, khi hơn 90% nhu cầu dầu của Nhật phải nhập khẩu và chủ yếu được vận chuyển qua biển ĐNA. Trung Quốc cũng phụ thuộc lớn vào việc vận chuyển qua biển ĐNA khi Trung Quốc nhập khẩu khoảng 43% nhu cầu năng lượng trong năm 2006 và năm 2020 này phụ thuộc được dự đoán sẽ tăng lên tới 60% hoặc thậm chí cao hơn.[10]

Bây giờ, khi Chiến tranh Lạnh đã qua đi, Biển ĐNA đáng lẽ đã có thể mang lại một môi trường hòa bình cho tất cả các nước liên quan. Trên thực tế, các nước đều có thể đi lại tự do ở vùng biển này từ trước chiến tranh thế giới thứ II. Trong nghìn năm lịch sử cho đến khi Thế chiến thứ hai nổ ra, không quốc gia nào từng đưa ra một yêu sách chủ quyền với vùng biển trong khu vực biển ĐNA với tư cách vùng nước nội thủy hoặc vùng nước lịch sử hay cố gắng thu thuế, phí bảo vệ vùng biển hay yêu cầu các nhà hàng hải nộp đơn đề nghị sử dụng vùng biển này.

Ngoài ra, cả ngàn năm trước khi thực dân xâm chiếm châu Á và trước Thế chiến thứ hai, không nước nào từng yêu sách chủ quyền, thiết lập chính quyền địa phương có hiệu quả, hoặc dự định dùng sức mạnh để bảo vệ chủ quyền của mình trên bất kỳ hòn đảo nào thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhằm mục đích kiểm soát chính biển ĐNA.

Chỉ có một ngoại lệ và cũng chỉ dừng ở mức khai thác kinh tế, là ở vài hòn đảo nhỏ ở quần đảo Hoàng Sa, nơi mà từ năm 1816 vua Gia Long và các Hoàng đế Việt Nam sau này coi là lãnh thổ Việt Nam, hàng năm đều gửi thủy thủ để thu thập những tài sản có giá trị còn lại từ các vụ đắm tàu. Hành động này là bình thường đối với bất kỳ một quốc gia, đã đến một vùng đất không có người ở - để khai thác nguồn tài nguyên, nhất là những hòn đảo này ở gần Việt Nam hơn là gần các nước khác.

Trung Quốc chưa bao giờ có chủ quyền trên biển Đông Nam Á

Trung Quốc, ngay trong lúc năng lực hàng hải vào giai đoạn đỉnh cao ở thời nhà Minh, vào thế kỉ 15 đã gửi Trịnh Hòa (郑和, Zhenghe) với hàng nghìn tàu và hàng chục ngàn binh sĩ tiến hành cuộc thám hiểm qua biển ĐNA và Ấn Độ Dương để chứng minh sức mạnh quân sự của Trung Quốc và đưa các phái viên nước ngoài dọc theo tuyến đường biển tới Trung Quốc để biểu thị lòng tôn kính với hoàng đế Trung hoa và triều cống.

Tuy nhiên, các cuộc thám hiểm này không nhằm mục đích chiếm đóng đất đai hoặc là  kiểm soát vùng biển này. Từ những cuộc thám hiểm như thế này và các cuộc thám hiểm bé hơn đã là cơ sở để vẽ ra bản đồ Trung Quốc và bản đồ các vùng đất bên ngoài. Những bản đồ về “thế giới trong mắt Trung Quốc” không hề thể hiện là các vùng đất liền, hải đảo và đại dương này thuộc chủ quyền Trung Quốc, mặc dù chúng thường được diễn giải như vậy bởi Trung Quốc và các học giả Trung Quốc để hỗ trợ cho lập luận của nước này rằng quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, và 80% diện tích Biển ĐNA là vùng đất lịch sử và vùng biển của Trung Quốc.[11] 

Thế chiến thứ hai, đế quốc Nhật và ý đồ kiểm soát biển Đông Nam Á

Sự bất ổn tại biển ĐNA chỉ xảy ra khi Nhật Bản, trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã cố gắng mở rộng quyền kiểm soát của họ trên Biển ĐNA.[12]  Để chống lại sự mở rộng của Nhật Bản, và để bảo vệ các thuộc địa của họ, năm 1933 Pháp, một mình và đôi khi với sự khuyến khích của Anh, đã chính thức yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) ở vùng biển ĐNA. Trường hợp ngoại lệ là đảo Pratas (mà Trung Quốc gọi là Đông Sa) chỉ một mình Trung Quốc yêu sách chủ quyền và hiện nay đang kiểm soát đảo này.

Trung Quốc từ ý đồ sở hữu Hoàng Sa và Trường Sa

Kể từ sự sụp đổ của chủ nghĩa bành trướng Nhật Bản và chủ nghĩa thực dân phương Tây sau Thế chiến II, quá khứ đế quốc của Trung Quốc dường như đang trỗi dậy, có vẻ như đang cố gắng khôi phục lại vinh quang đã qua của mình. Ngay sau khi chiến tranh, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách gặm nhấm từng bước biển ĐNA. Quá trình này bắt đầu với tuyên bố của Chu Ân Lai về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1951, và tiếp tục với những bước đi thận trọng để chiếm các đảo này khi Trung Quốc cảm thấy đủ an toàn để làm như vậy. Trong tuyên bố năm 2000, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra các lý do sau đây để viện dẫn cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa:[13]

Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi đối với quần đảo Nam Sa [Trường Sa – tên gọi của Việt Nam] và các vùng nước lân cận. Trung Quốc là quốc gia đầu tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo là Nam Sa và là quốc gia đầu tiên thực hiện chủ quyền đối với quần đảo này. Chúng tôi có lịch sử phong phú và bằng chứng pháp lý để chứng minh điều đó và cộng đồng quốc từ lâu đã công nhận điều đó.

Trong Thế chiến II, Nhật Bản phát động các cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc và chiếm phần lớn lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả quần đảo Nam Sa. Điều này đã được nêu rõ trong Tuyên bố Cairo, Tuyên bố Potsdam và các văn bản quốc tế khác rằng tất cả các vùng lãnh thổ Nhật Bản đã bị đánh cắp từ Trung Quốc cần phải được giao lại cho Trung Quốc, và lẽ tự nhiên, chúng bao gồm quần đảo Nam Sa.

Tháng 12 năm 1946, Chính phủ Trung Quốc sau đó đã gửi quan chức cao cấp đến quần đảo Nam Sa để khôi phục chủ quyền. Lễ tiếp quản đã được tổ chức trên quần đảo và một tượng đài đã được dựng lên trong dịp kỷ niệm đó, và các binh sĩ đã được gửi qua làm nhiệm vụ đồn trú.

Năm 1952 Chính phủ Nhật Bản đã chính thức tuyên bố rằng Nhật Bản từ bỏ tất cả của nó "quyền, tên gọi và yêu sách chủ quyền đối với Đài Loan, đảo Bành Hồ cũng như các quần đảo Nam Sa và Tây Sa", do đó chính thức trả lại quần đảo Nam Sa cho Trung Quốc. Tất cả các nước đều thấy rõ đây là một phần của nền lịch sử.

Như một vấn đề của thực tế, Hoa Kỳ công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Nam Sa trong một loạt các hội nghị quốc tế và thông lệ quốc tế sau đó.

Phần trích dẫn trên có nhiều tuyên bố sai so với sự thật. Hoàn toàn sai khi tuyên bố rằng Tuyên bố Cairo và Potsdam đã quyết định rằng quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa) và Trường Sa (Nam Sa) được trả lại Trung Quốc. Cũng hoàn toàn sai khi nói rằng Mỹ công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Nam Sa. Đúng là Nhật Bản đã được yêu cầu phải từ bỏ tất cả các vùng đất mà họ đã chiếm đóng nhưng không có lệnh nào yêu cầu Nhật Bản trả Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Trên thực tế, đề nghị của Liên Xô về việc này đã bị bác bỏ.[14]  Thật ra đề nghị của Liên Xô, chỉ sau tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa của Chu Ân Lai một tháng, là nhằm bành trướng khu vực kiểm soát cho khối cộng sản mà lúc đó Trung Quốc là một thành viên. (Các phân tích và tài liệu tham khảo với các sự kiện năm 1951 được liệt kê trong bảng phụ lục về biên niên sử các sự kiện liên quan đến biển ĐNA đã được kèm trong bài viết, và sẽ không được lặp lại ở đây). Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng Mỹ công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa bằng cách trích dẫn hai quyển tự điển do công ty tư nhân ở Mỹ vẽ và xuất bản thì quả thật là chuyện khôi hài. Chuyện khôi hài này vẫn còn trên mạng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc.[15]

Mỹ đứng ngoài tranh chấp?

Trước khi Mỹ phát biểu ở Hà Nội vào tháng 7 năm 2010 khẳng định lần đầu sự quan tâm của Mỹ về hòa bình ở Biển ĐNA, về quyền tự do lưu thông trên biển, sẵn sàng hổ trợ việc đàm phán đa phương các tranh chấp giữa các nước, tức là gạt bỏ chính sách của Trung Quốc chỉ muốn đàm phán song phương, cần phải chỉ ra một điều quan trọng là Hoa Kỳ đã không thể hiện bất kỳ mối quan tâm nào đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa kể từ năm 1950[16] cho đến năm 2010. Đây là lý do Trung Quốc tiếp tục tiến công vào Biển ĐNA, chiếm các đảo nằm trong tay Việt Nam, một nước được coi là thù địch với Mỹ, và hù dọa các nước khác. Chỉ gần đây, Mỹ đã nhiều lần tuyên bố:

 “Hoa Kỳ luôn khẳng định chính sách cơ bản của chúng tôi liên quan đến yêu sách chủ quyền gây tranh cãi ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), gần đây nhất tại Đối thoại Shangri-La 2009, nơi Bộ trưởng Gates nói rằng Hoa Kỳ không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền và ủng hộ một giải pháp hòa bình để đảm bảo quyền tự do hàng hải”[17] 

“Hoa Kỳ tiếp tục theo đuổi chính sách không đứng về bên nào trong tranh chấp yêu sách chủ quyền hợp pháp ở Biển Nam Trung Hoa. Nói cách khác, chúng tôi không đứng về bên nào trong tuyên bố về chủ quyền đối với các đảo cũng như các dải đất khác ở Biển Nam Trung Hoa, hoặc là miền biển (như vùng lãnh hải) có hiệu lực dựa trên cơ sở vùng đất lãnh thổ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ quan ngại về các yêu sách chủ quyền đối với “vùng lãnh hải” hoặc bất kỳ vùng biển nào không dựa trên cơ sở vùng đất lãnh thổ. Những tuyên bố về vùng biển như vậy không phù hợp với luật quốc tế, như đã được phản ánh trong Công ước Luật Biển của LHQ”[18]  


Gậm nhấm chờ thời của Trung Quốc

Chính sách gặm nhấm của Trung Quốc đã được tính toán cẩn thận và căn thời điểm để tránh càng nhiều càng tốt bất kỳ phản ứng đáng kể nào của thế giới.

Năm 1974, Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm cụm đảo Lưỡi Liềm (Crescent) ở quần đảo Hoàng Sa lúc bấy giờ do quân đội miền Nam Việt Nam quản lý ngay sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris 1972 về chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Việc này diễn ra đúng vào thời điểm miền Bắc Việt Nam, đồng minh của Trung Quốc đang phải tập trung nỗ lực vào cuộc chiến.

Năm 1988, Trung Quốc một lần nữa hành động, sử dụng vũ lực chiếm đảo Gạc Ma (Johnson South Reef) thuộc quần đảo Trường Sa vốn thuộc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nhằm đặt chân lên quần đảo Trường Sa. Việc này được thực hiện vào thời điểm hải quân Liên Xô ở Vịnh Cam Ranh, Việt Nam gần như không còn hoạt động do tình hình hỗn loạn ở Liên bang Xô Viết và đó cũng là lúc Việt Nam bị cô lập với quốc tế do vấn đề Campuchia.

Việc giành quyền kiểm soát một cách lén lút của Trung Quốc đối với đảo Vành Khăn ở Trường Sa từ tay Philippines không được phát hiện cho đến năm 1994 và 1995, và nó đã được tính toán xảy ra đúng vào thời điểm Hoa Kỳ đã được chính phủ Philippines yêu cầu đóng cửa căn cứ quân sự ở nước này.

Tuy nhiên, có một việc nằm ngoài kế hoạch của Trung Quốc là vào thời điểm này, Trung Quốc đang đối mặt với sự tẩy chay của cộng đồng quốc tế do việc đàn áp bạo lực tại quảng trưởng Thiên An Môn năm 1989. Thế nhưng, đó cũng có thể là hành động được Trung Quốc tính toán trước, như là một phép thử cần thiết về phản ứng đối với Trung Quốc một khi nước này có hành động đối với đồng minh thân cận của Mỹ.

Yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo này chỉ là một bước đi ban đầu để tiến đến mục tiêu tham vọng hơn nhiều là kiểm soát toàn bộ Biển ĐNA. Trung Quốc đã xuất bản bản đồ 9 đoạn hình chữ U hầu như bao trọn vùng nước đại dương thuộc biển ĐNA như lãnh thổ của Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra một tuyên bố rõ ràng và cung cấp các luận chứng cho tuyên bố của mình. [19]

Từ chờ thời đến biểu dương sức mạnh quân sự

Tuy nhiên, năm 2009, phản ứng trước việc Malaysia và Việt Nam đăng kí chung về thềm lục địa lên Ủy ban về ranh giới ngoài thềm lục địa của LHQ ngày 6/5/2009, Trung Quốc cũng đã trình lên Ủy ban này tuyên bố về vùng nước rộng lớn bao quanh “đường ranh giới” 9 đoạn mà Trung Quốc vẫn chưa xác định rõ trên bản đồ.

Tuyên bố ngày 7/5/2009 viết, “Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi đối với các đảo ở biển Nam Hải và các vùng nước lân cận, và được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và các tầng đất dưới bề mặt vùng biển đó (xem đính kèm)”.

Vùng nước liên quan của Trung Quốc trên thực tế là “những tuyên bố về vùng lãnh hải hoặc bất kỳ vùng biển nào không dựa trên cơ sở  vùng đất lãnh thổ”, mối quan ngại không chỉ của Mỹ mà tất cả các nước ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Bản đồ kèm theo (bản đồ số 1 dưới đây) là đường chữ U chín đoạn gãy, nhưng không có tọa độ chính xác rõ ràng, đã được Trung Quốc chính thức nộp cho Liên Hợp Quốc nhằm nói lên rằng lãnh thổ trên biển của Trung Quốc gồm tới hơn 80% Biển ĐNA. Bản đồ số 2 tương tự như bản đồ số 1 được sử dụng để thể hiện không chỉ đòi hỏi của Trung Quốc mà còn mở rộng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc chồng lấn vào khu vực 200 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế của hầu hết các nước ở khu vực ĐNA, bao gồm Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines và Việt Nam.

Bn đ 1: Lãnh hi trong khu đường gch ch U Trung Quc np cho y ban Gii hn Thm Lc đa ca Liên Hp Quc
 (UN’s commission on the Limits of the Continental Shelf)

Bn đ 2: Ngun:  UNCLOS và CIA, trên BBC News:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/06/090602_viet_malay_claim.shtml

 

Tuyên bố của Trung Quốc nếu được thực hiện sẽ cho phép Trung Quốc được toàn bộ Biển ĐNA và đẩy Mỹ và các cường quốc khác ra khỏi khu vực. Tuyên bố này đã làm thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lo ngại ở hai điểm. Trước tiên, quyền của các nước ASEAN đối với các khu dầu mỏ, quyền đánh bắt cá và khai thác tài nguyên dưới lòng đất khác sẽ bị hạn chế nghiêm trọng. Ví dụ, Việt Nam và Exxon Mobile hợp tác khai thác dầu khí ở giếng dầu Rồng Xanh (Blue Dragon) và bờ đá Vanguard nằm trong thềm lục địa Việt Nam, nhưng đồng thời cũng nằm trong đường ranh giới chữ U của Trung Quốc. Hai là, như đã thể hiện rõ ở bản đồ 2, biển ĐNA sẽ là một hồ nước không thể chối cãi của Trung Quốc nếu đường ranh giới chữ U của Trung Quốc được chấp nhận. Chấp thuận yêu sách của Trung Quốc về quyền cấm tàu và máy bay quân sự nước ngoài đi qua vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc là chấp nhận rằng Trung Quốc có được quyền lực quân sự hiếm có để kiểm soát Biển ĐNA.

 

Sau tuyên bố chính thức về đường chữ U, Trung Quốc thực hiện nhiều cuộc diễn tập Hải quân lớn và liên tục tại Biển Đông,[20] một phần để thử sức mình, nhưng phần lớn là nhằm hù dọa các nước về sực mạnh quân sự của mình. Sau khi không thấy phản ứng của các cường quốc, Trung Quốc tiến xa hơn, tuyên bố chính thức coi biển ĐNA là “lợi ích cốt lõi” của họ, giống như Đài Loan, Tây Tạng mà họ sẵn sàng dùng võ lực để bảo vệ.[21] Một sĩ quan Trung Quốc giấu tên ở Quảng Châu, trả lời trong một cuộc phỏng vấn với giọng vừa hiếu chiến nhưng cũng khá thực tế là “vài hòn đảo ở Nam Sa và Tây Sa hiện bị các nước khác chiếm đóng…Hiên nay, có vẻ như không có biện pháp giải quyết nào khác ngoài việc dùng vũ lực. Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến các cuộc chiến tranh trường kỳ. Các đảo này nằm xa lục địa, nhiều cái không người ở, cho nên giả dụ chúng tôi chiếm lại được thì cũng khó bảo vệ.”[22] Chính sách của Đặng Tiểu Bình qua câu nói thao quang dưỡng hối [韬光养晦, tao quang yang hui], có nghĩa là dấu sáng, nuôi cơ hội, phải chăng đã lỗi thời? Cơ hội mới này phải chăng là khả năng làm bá chủ biển ĐNA hay bị thế giới lên án là một cường quốc hiếu chiến vô trách nhiệm?

 

Điều này đẩy Mỹ phải thay đổi chính sách về Biển ĐNA. Trong Diễn Đàn Khu vực ASEAN (ARF) diễn ra ở Hà Nội vào ngày 22 và 23 tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ Hellary Clinton đã khẳng định “Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc tự do lưu thông hàng hải, tự do tiếp cận các vùng biển ở châu Á và tôn trọng luật pháp quốc tế tại Biển Đông". Mỹ cũng cho rằng tìm kiếm giải pháp tranh chấp lãnh thổ là “ưu tiên ngoai giao hàng đầu” và khẳng định Mỹ  “ “sẵn sàng hổ trợ cho đàm phán đa phương nhằm giải quyết các yêu sách đối kháng về đảo.”  và coi Calling the resolution of the territorial disputes "a leading diplomatic priority,"[23], [24] Bài diễn văn đã được 11 nước lớn khác tham dự ủng hộ.[25]  Quan điểm mới của Mỹ là nhằm trả lời thách thức của Trung Quốc. Trung Quốc tỏ ra bất ngờ về thái độ của Mỹ.

 

Dù sao đây là cuộc đối đầu dài lâu mang tính chiến lược vì an ninh kinh tế và quốc phòng của các nước phương Tây và các đồng minh của họ ở châu Á. Nó khác hẳn với cuộc chiến tranh ở Afghanistan chỉ mang tính cục bộ chống khủng bố. Cuộc đối đầu này có thể rất tốn kém cho Mỹ vì Mỹ phải tập trung không chỉ xây dựng sức mạnh hải quân mà cón sức mạnh quân sự ở đất liền. Cuộc đối đầu nhằm cân bằng sức mạnh mang tính phiêu lưu của Trung Quốc, dù mang tính chất gìn giữ hòa bình, sẽ khó thực hiện dài lâu nêu dân chúng thế giới, đặc biệt là dân chúng Mỹ và dân chúng ASEAN không ủng hộ. Thế của Mỹ sẽ yếu đi nếu các nước ASEAN không đạt được một thỏa thuận nào quan trọng nhằm chặn đứng hành động bạo lực của Trung Quốc, thí dụ như việc luật hóa được “Tuyên bố về Hành vi của Các bên ở Biển Nam Trung Hoa” ra đời năm 2002.[26]   

 

Và đằng sau đề nghị hợp tác của Trung Quốc

 

Để che giấu mối đe dọa đó, Trung Quốc luôn kêu gọi hợp tác trong việc khai thác chung các nguồn tài nguyên. Lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra đề nghị với Philippines mà sau đó Việt Nam cùng tham gia Thỏa thuận thăm dò địa chấn hải dương chung ở một số khu vực của biển Nam Trung Hoa, gọi tắt là JMSU 7/2005. Thỏa thuận ba bên này giữa Philippines, Trung Quốc và Việt Nam nhằm thăm dò trữ lượng dầu và khí ở Biển Nam Trung Hoa đã hết hiệu lực  vào tháng 7/2007 và không được ký lại khi Chính phủ Philippines phải đối mặt với sự phản đối gay gắt từ phía Nghị viện và báo chí nước này.[27] Ai cũng có thể dễ thấy là không thể hợp tác trên cơ sở là các nước phải chấp nhận chủ quyền trên toàn Biển ĐNA của Trung Quốc.


Tham vọng kiểm soát biển Đông Nam Á

 

Với mục tiêu đảm bảo cho tham vọng kiểm soát biển ĐNA của Trung Quốc, Hải quân Trung Quốc đã xây dựng căn cứ tàu ngầm tại đảo Hải Nam, có khả năng đáng kể trong việc gài mìn trong biển, chương trình chống tên lửa đạn đạo, và phát triển và đầu tư công nghệ quân sự được thiết kế để thách thức hải quân Mỹ tiếp cận vào vùng biển Đông Á, và có kế hoạch xây dựng các tàu sân bay.[28], [29]

Chiến lược được Trung Quốc đưa ra rõ ràng nhằm bao quanh biển ĐNA như vùng lãnh thổ của Trung Quốc và ngăn chặn những lực lượng bên ngoài xâm nhập vào vùng nước được nước này yêu sách chủ quyền. Đồng thời, mục tiêu của chiến lược này là ngăn cấm các quốc gia như Việt Nam đánh bắt cá trong vùng hình chữ U, và trên thực tế Trung Quốc đã triển khai thực hiện từ tháng 5/2009. Đây là hành động chuẩn bị cơ sở cho việc khai thác tài nguyên tích cực trong đường ranh giới chữ U với sự bảo vệ của hải quân Trung Quốc.

Cách diễn giải “độc đáo” luật biển quốc tế của Trung Quốc liên quan đến chính quyền của quốc gia ven biển nhằm hạn chế hoặc ngăn cấm các hoạt động quân sự nước ngoài ở vùng đặc quyền kinh tế là một phần trong kế hoạch nhắm tới của Trung Quốc là thực hiện độc quyền kiểm soát quân sự của Trung Quốc tại không gian biển bên trong đường chữ U. Sự kiểm soát này tương tự như sự kiểm soát để thực hiện chủ quyền đối với lãnh hải Trung Quốc” [30]

 

Rõ ràng hơn, Đô đốc Timothy Keating, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã nói về cuộc gặp gỡ Đô đốc Trung Quốc năm 2009 như sau:

 

" ... khi chúng tôi – Trung Quốc xây dựng tàu sân bay, liệu chúng ta có thể đưa ra một thỏa thuận: Hoa Kỳ sẽ ở phía đông của Hawaii, chúng tôi sẽ ở lại phía tây của Hawaii và chúng tôi có thể giúp Mỹ tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc di chuyển tới tất cả các đường ở phía tây Thái Bình Dương. Các bạn sẽ cho chúng tôi biết điều gì đang diễn ra và các bạn đang ở đâu, và chúng tôi sẽ thông tin về những gì đang xảy ra và vị trí của chúng tôi. Tất cả mọi thứ sẽ thật tuyệt. Tôi đã từ chối lời đề nghị của ông ta.” [31]

Thật khó để hình dung Trung Quốc, quốc gia đã phải chịu nhiều đau khổ từ chủ nghĩa đế quốc Nhật và phương Tây có thể sử dụng cách tiếp cận tương tự để đe dọa các quốc gia khác như cách Trung Quốc đã làm trước khi phương Tây đến châu Á.

Sự khăng khăng được lặp lại nhiều lần của Trung Quốc rằng Trung Quốc có chủ quyền “không thể thương lượng” – “non-negotiable” [32] và “không thể tranh cãi [33] đối với các quần đảo ở biển ĐNA không nhất quán với lời kêu gọi của Trung Quốc về việc khai thác chung ở vùng biển ĐNA với các bên tuyên bố khác, trừ khi điều Trung Quốc thực sự muốn là khu vực khai thác chung là nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ĐNA, nơi mà vùng đặc quyền kinh tế của các nước này chồng lấn với đường ranh giới chữ U do Trung Quốc tuyên bố. Đường ranh giới chữ U không dựa trên cơ sở lịch sử cũng như pháp lý nào.

Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề chính liên quan đến nội dung khái quát trên, nhằm đánh giá các yêu sách chủ quyền trên cơ sở các văn bản lịch sử và luật pháp quốc tế. Không có tài liệu lịch sử mới nào được giới thiệu trong bản nghiên cứu này. Tuy nhiên, một sự nghiên cứu kĩ lưỡng hơn đối với các văn bản có sẵn hiện nay có thể cung cấp những sự diễn giải mới mẻ.

Cùng với việc nghiên cứu kĩ lưỡng luật pháp quốc tế, việc kiểm tra lại các văn bản lịch sử hi vọng sẽ mở ra những cuộc đàm phán nhiều bên một cách hợp lý hoặc đưa tới phân xử quốc tế dựa trên cơ sở thực tiễn, hơn là những hành động mang đậm chủ nghĩa dân tộc. Ít nhất, với các nước thành viên ASEAN, những quốc gia sẵn sàng đàm phán và những người không có động lực trong việc kiểm soát biển ĐNA, việc xem lại thực tế có liên quan hi vọng sẽ giúp dẫn tới một giải pháp công bằng và hợp lý.

 


 

Phần II

Xem xét lại những yêu sách
dựa trên “chủ quyền lịch sử

 

Mục tiêu của phần II

Phần này dựa trên các công trình nghiên cứu  quan trọng, các tác phẩm được chấp nhận rộng rãi về lịch sử của một số tác giả bao gồm: nghiên cứu về khai thác và thương mại trên biển của Trung Quốc, của tác giả Marwyn S. Samuels mang tên Contest for the South China Sea[34] vai trò của các cường quốc phương tây ở biển ĐNA trong đầu thế kỉ 20, Stein Tonnesson mang tên The Age of European Decline,[35] Tạp chí Tạp San Sử Địa[36] (1974) bao gồm nhiều thông tin giá trị và các văn bản tiếng Việt viết bằng tiếng Hán và đã được dịch ra tiếng Việt.

Bài viết cũng sử dụng các nghiên cứu gần đây như Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Nhã ở Việt Nam.[37]  

Rất quan trọng là việc xem xét lịch sử chính thống Trung Quốc của Hồ Bạch Thảo nhằm xác định xem Hoàng Sa và Trường Sa có bao giờ chính thức là đất Trung Quốc chưa. Để làm việc này, ông đã dịch các phần liên quan trong Minh Sử (Ming shi, 明史), Thanh Sử Cảo (Qing Shi Gao, 清史稿, Lịch sử vương triều Thanh), xem xét Đại Thanh Nhất thống Toàn đồ (Da Qing Yi Tong Quan Tu (大清一統全), bản đồ đầy đủ của vương triều Thanh).[38]  Ngoài ra các bản dịch mới và chính xác hơn các văn bản chính thức bằng tiếng Hán của Việt Nam trong thời chúa và vua Nguyễn ở thế kỉ 18 của Hồ Bạch Thảo cũng được sử dụng ở đây.

Cùng với các tài liệu trên là quyển sách nghiên cứu hết sức quan trọng về lịch sử tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển ĐNA giữa Pháp và Trung Quốc trên cơ sở diễn giải luật quốc tế: Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands của nhà luật học Monique Chemillier- Gendreau.[39] Về mặt lý luận pháp lý cụ thể, tác giả cũng đã tham khảo bài viết giá trị của Từ Đặng Minh Thu.[40]

Một số tranh cãi pháp và diễn giải pháp lý cũng đã được viện dẫn từ bài viết thông minh và công bằng của Brice Clagett, “Competing Claims of Vietnam and China in the Vanguard Bank and the Blue Dragon Areas of the South China Sea.”[41]

Chỉ một số vấn đề được thảo luận trong phần chính này, tuy nhiên, những phần còn lại không phải ít quan trọng hơn, đã được đưa vào trong biên niên biểu các sự kiện liên quan đến lịch sử và xung đột ở Biển ĐNA với nhận xét và/hoặc kết luận được đưa ra bởi các nhà nghiên cứu khác.

Biên niên biểu được kèm trong phụ lục ở cuối bài viết bao gồm không chỉ các sự kiện, thời gian quan trọng có liên quan đến tranh chấp ở Biển ĐNA được sưu tầm bởi các nghiên cứu đã nêu trên mà còn kèm theo các nhận xét và giải thích.

A. Những yêu sách của Trung Quốc

Trung Quốc đưa ra hai yêu sách riêng biệt và không liên quan với nhau:  Yêu sách về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, và yêu sách về các vùng nước trong đường ranh giới 9 đoạn hình chữ U tại Biển ĐNA như là vùng nội thuỷ. Như vậy Trung Quốc đã yêu sách chủ quyền không chỉ tất cả các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong biển ĐNA cùng với các vùng liên quan như vùng nước lân cận, đáy biển và các tài sản thuộc các tấng đất mà còn yêu sách toàn bộ biển cùng với đáy và các tài sản thuộc tầng đất trong đường hình chữ U đã được trình lên Liên Hợp Quốc năm 2009 như đã được đề cập tới trong phần bối cảnh. 

Yêu sách đầu tiên về các hòn đảo và các khu vực lân cận, vùng nước dựa trên đất liền ít nhất cũng tương thích với luật quốc tế. 

Yêu sách thứ hai về chủ quyền đối với vùng biển không bắt nguồn từ đặc tính của đất liền có chủ quyền là không phù hợp với luật pháp quốc tế và không được hỗ trợ bởi các tài liệu lịch sử hay bởi bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, hoặc tự nguyện hoặc hoàn toàn đồng ý.  

Yêu sách thứ hai về vùng nước trong đường hình chữ U chỉ hợp lý nếu biển ĐNA luôn được thế giới coi là vùng nước lịch sử của Trung Quốc và nếu Trung Quốc luôn có đủ khả năng kiểm soát nó và đã thuyết phục các quốc gia khác theo cách này hay cách khác chấp nhận sự kiểm soát của Trung Quốc từ trước đến nay.  Nhưng Trung Quốc chưa bao giờ kiểm soát biển ĐNA và không ai chấp nhận điều này vì rõ ràng là các quốc gia khác luôn luôn có quyền tự do đi lại ở đây mà không phải xin phép ai. 

Yêu sách thứ hai cũng không phù hợp với Công ước luật biển của Liên Hiệp Quốc. Công ước Luật biển không chấp nhận khái niệm “vùng biển lịch sử”. Tuyên bố thứ hai cũng ngược với Tuyên bố về Lãnh hải của Trung Quốc năm 1958 (Declaration on China's Territorial Sea of 1958) Luật năm 1992 về Lãnh hải và Vùng Tiếp giáp (China's 1992 Law on the Territorial Sea and the Contiguous Zone), trong đó đề cập tới vùng biển cả như một thứ để chia tách các hòn đảo, ví dụ như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khỏi đất liền và các đảo ven bờ. Điều 1 của Tuyên bố về vùng Lãnh hải của Trung Quốc viết như sau:

Bề rộng của lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc là mười hai hải lý. Điều khoản này áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm cả Trung Quốc đại lục và các hòn đảo ven biển của nó, cũng như Đài Loan và các đảo lân cận của Đài Loan, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, Nam Sa (Trường Sa), và tất cả các hòn đảo khác thuộc Trung Quốc nằm cách đất liền và các đảo ven biển của Trung Quốc bởi các vùng biển cả.[42]

Văn bản này tuyên bố rằng có vùng biển cả nằm giữa đại lục cùng vùng cao nguyên ven biển của đại lục và tất cả các hòn đảo khác. Vùng biển cả mà tuyên bố này đề cập tới không còn tồn tại khi Trung Quốc công bố đường chữ U.

Luật năm 1992 về Lãnh hải và các Vùng Tiếp giáp của Trung Quốc đã làm cho yêu sách chủ quyền về “các vùng nước lịch sử” trở nên vô lý, thiếu nhất quán. Giống như Tuyên bố về Lãnh hải năm 1958, luật năm 1992 chỉ đưa ra tuyên bố lãnh hải 12 hải lý bao quanh đất liền mà nó yêu sách chủ quyền, cộng với vùng tiếp giáp 12 hải lý cho các mục đích hải quan và các mục đích tương tự như vậy. Luật này không nêu ra “vùng biển lịch sử” hoặc bất kỳ cơ sở nào cho các quyền về biển khác hơn là các vành đai biển thuộc về đất liền. Ông Brice M. Clagett viết như sau [43]

 “Không có ví dụ nào tồn tại trong luật pháp quốc tế hiện đại mà một nước đưa ra yêu sách chủ quyền – càng không có ví dụ nào mà nước đưa ra tuyên bố như vậy lại được các nước khác hay cộng đồng quốc tế cho phép hoặc công nhận - để nhằm mở rộng lãnh hải (và/hoặc đáy biển) vin vào cớ có sở hữu “lịch sử”. Thậm chí, nếu Trung Quốc có thể chỉ ra rằng từ thời xa xưa khi ngư dân Trung Quốc đánh bắt độc quyền ở các khu vực này thì Trung Quốc cũng không thể thiết lập sở hữu  “lịch sử” đối với biển và/hay đáy biển.

“No instance exists in modern international law in which a state has made a claim - much less in which a state has had such a claim allowed or recognized by other states or by the international community - to broad expanses of maritime space (and/or its seabed) on the basis of an alleged "historic" title. Even if China could show that from time immemorial its citizens exclusively had navigated and fished in the entire South China Sea, such a showing would not even begin to establish a "historic" title to the sea and/or seabed.”

Bằng việc yêu sách chủ quyền đối với vùng nước, vùng nước mà không xuất phát từ đất liền và không tương xứng với luật quốc tế, Trung Quốc có thể sử dụng điều này như một lý do để ép các nước khác phải chấp nhận yêu cầu của họ. Mối đe doạ tiềm ẩn này đã tạo ra việc đẩy mạnh chạy đua xây dựng quốc phòng ở khu vực Đông Nam Á và có thể dẫn đến hậu quả khó lường khi tuyên bố của Trung Quốc không hợp pháp và bị phản đối về mặt đạo đức ở cấp độ quốc tế.

 

1. Bằng chứng phải là chính sử, tài liệu chính thức của nhà nước trung ương

Việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là dựa trên các tài liệu mà kẻ du hành và các nhà thám hiểm viết ra và dĩ nhiên, theo công pháp quốc tế, không phải là các tài liệu chính thức của chính phủ có thể dựa vào để chứng minh chủ quyền và sự kiểm soát chính thức của Trung Quốc ở các quần đảo này. Các bản đồ cổ mà các học giả Trung Quốc sử dụng cũng không phải là bản đồ chính thức. Thực tế, chúng là những bản đồ vẽ về thế giới, cái mà, dĩ nhiên, sẽ bao hàm cả Biển ĐNA cũng như các nước bị Trung Quốc coi là chư hầu và các nước nằm dưới sự cai trị của Trung Quốc. Những nơi có tên trong những bản đồ ấy không phải là lãnh thổ của Trung Quốc.

Trung Quốc chưa bao giờ coi quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là lãnh thổ của mình. Thậm chí cuối thế kỷ 19, Trung Quốc vẫn không coi Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Điều này được đánh dấu bởi các sự kiện liên quan đến hai tàu La Bellona và Imeji Maru. Hai tàu này bị chìm gần quần đảo Paracels (Hoàng Sa), một tàu chìm năm 1895 và tàu còn lại chìm năm 1896. Các ngư dân từ đảo Hải Nam, Trung Quốc đã nhặt được đồng từ xác tàu vỡ đem bán lại cho các hãng tàu. Công ty bảo hiểm của hai con tàu này đã phản đối chính phủ Trung Quốc, đòi Trung Quốc phải chịu trách nhiệm. Khâm sai Quảng Đông rrả lời Công sứ Anh tại Băc Kinh rằng "Paracels là những hòn đảo vô chủ (nguyên văn: bỏ không) chẳng thuộc Trung Quốc cũng như chẳng thuộc An Nam, về mặt hành chính chúng không nằm trong địa phận của quận huyện nào ở Hải Nam và cũng không có cơ quan đặc trách nào lo việc cảnh sát ở đó cả."[44]. Sự kiện này tuy nhỏ nhưng cũng có thể giúp khẳng định là Trung Quốc không coi quần đảo này thuộc họ vào lúc đó.  

Chúng ta hãy xem Trung Quốc chứng minh và bảo vệ tuyên bố của họ như thế nào. Như đã được phản ánh trong quan điểm của Bộ Ngoại giao Trung Quốc và trong Tuyên bố năm 2000,[45] Trung Quốc viết như sau:  

Vấn đề (1) về phát hiện: Người Trung Quốc là người đầu tiên phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sự phát hiện sớm nhất của người Trung Quốc về quần đảo Nam Sa (Trường Sa) có thể truy nguyên ngược về nhà Hán. Yang Fu thời Đông Hán (năm 23- 220 sau công nguyên) nói về quần đảo Trường Sa trong cuốn sách của ông ta với tựa đề Dị vật Chí (Yiwu Zhi), đọc là: Zhanghai Qitou, shui quian er duo cishi” (“Có các đảo nhỏ, cồn cát, bãi đá và các rạn san hô ở biển Nam Trung Hoa, vùng nước ở đây không sâu và đầy các đá hoặc sỏi có từ tích.” [46]

Vấn đề (2) về ghi chú trong bản đồ: Trung Quốc cho rằng “Changsa” có nghĩa là Paracels (tên Việt là Hoàng Sa và “Shitang” (Thạch Đường) có nghĩa là Trường Sa va rằng chúng đã được ghi lại trong Bản đồ toàn lãnh thổĐịa lý, thủ phủ thuộc các triều đại trước đã được in thời nhà Minh, và Bản đồ lộ trình cũng được in thời Minh, nhuận sắc và sử dụng thời Thanh, được sử dụng như “một hướng dẫn về phương hướng cho ngư dân Trung Quốc trong các chuyến đi của họ tới quần đảo Tây Sa và Nam Sa”. Ở các bản đồ này, có thể tìm thấy từ “Thạch Đường” thay cho từ Nam Sa được sủ dụng ngày nay. [Chú thích của tác giả: Các danh từ riêng về bản đồ ở trên viết bằng tiếng Anh, không có nguồn gốc tiếng Hán, nên không rõ tên và nguồn gốc thật của chúng.] 

Vấn đề (3) về hoạt động của dân chúng:  Trung Quốc là nước đầu tiên phát triển quần đảo Trường Sa: “Hướng dẫn tới biển Nam Trung Hoa năm 1868 có ghi nhận các hoạt động của ngư dân Trung Quốc tại trong vùng biển Nam Sa. [Chú thích của tác giả: Các danh từ riêng về bản đồ ở trên viết bằng tiếng Anh, không có nguồn gốc tiếng Hán, nên không rõ tên và nguồn gốc thật của chúng.]

Vấn đề (4) về thực hiện chủ quyền nhà nước: Trung Quốc là nước đầu tiên thực hiện thẩm quyền ở quần đảo Nam Sa. Điều này được thực hiện từ thời nhà Nguyên.  Trong thời Nhà Thanh, Trường Sa được đánh dấu như là lãnh thổ của Trung Quốc trong nhiều bản đồ như: 

 “Bản đồ về phân chia hành chính của toàn Trung Quốc trong bản đồ vẽ 1724 các tỉnh của vương triều nhà Thanh.  Bản đồ phân chia hành chính của toàn Trung Quốc trong bản đồ vẽ năm 1755 các tỉnh vương triều nhà Thanh, Bản đồ 1767 Toàn Trung Quốc của Đại Thanh trong mười ngàn năm, và Bản đồ định vị vẽ năm 1810 Toàn Trung Quốc của Đại Thanh trong 10 nghìn năm, và Bản đồ vẽ 1817 Toàn Trung Quốc của Đại đế Thanh trong 10 nghìn năm…” .[Chú thích của tác giả: Các danh từ riêng về bản đồ ở trên viết bằng tiếng Anh, không có nguồn gốc tiếng Hán, nên không rõ tên và nguồn gốc thật của chúng.]

Về vấn đề (1) về việc phát hiện, có thể đúng là Trung Quốc là nước đầu tiên viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bởi vì Trung Quốc đã phát triển hệ thống chữ viết vào thời gian đó. Tuy nhiên, có thể không đúng nếu như cho rằng người Trung Quốc là người đầu tiên phát hiện ra những quần đảo này. Rất có thể những người rất giỏi đi biển của Vương quốc Chăm ở miền Trung Việt Nam hiện nay đã phát hiện ra chúng từ lâu trước người Trung Quốc, nhưng những người này lúc đó chưa có chữ viết nên không thể viết ra được.

Cần có sự phân biệt rõ ràng về mặt khái niệm giữa nhận thức về mặt địa lí và sự khám phá. Hiệu quả về mặt pháp lý của chúng cơ bản khác nhau.

Thực tế trong trường hợp này không có tài liệu nào, ngoài việc cho phép chúng ta nhận biết về mặt địa lý các đảo hay biết tới những chuyến đi riêng lẻ của một số ngư dân, có thể cho phép chúng ta kết luận rằng Chính phủ Việt Nam hay Trung Quốc đã thực hiện các hành động, có thể coi là  thực thi quyền sở hữu dù chỉ là một cách tượng trưng trước thế kỉ 18, trước khi Hoàng đế Gia Long của Việt Nam thực hiện quyền lực ở Hoàng Sa.[47] (Ý nghĩa của Hoàng Sa sẽ được thảo luận trong phần tuyên bố của Việt Nam). Tất nhiên đã có sự có mặt của dân quân chúa Nguyễn gửi ra đảo từ những năm 1760 và được ghi trong Phủ Biên Tạp lục của Lê Quí Đôn, nhưng việc Đàng Trong của chúa Nguyễn có phải là một quốc gia độc lập không là vấn đề có thể tranh cãi.

Hơn nữa, trên cơ sở tiền lệ trong luật quốc tế, yêu sách chủ quyền dựa trên một vùng đất vô chủ (terra nullius) chỉ là sở hữu chưa hoàn chỉnh và mới là bước đầu/phôi thai; nó cần được chuyển thành một sở hữu thực tế thông qua việc thực thi quyền lực liên tục: sở hữu hiện thực, liên tục, không bị gián đoạn, của bên yêu sách chủ quyền trước khi yêu sách chủ quyền đó có hiệu lực.  Bà Monique Chemillier Gendreau đã viết về học thuyết đã được phát triển giữa thế kỷ trước và đã được khẳng định trong các hành xử thực tế về ngoại giao và tiền lệ phân xử [48] qua quan điểm pháp lý quốc tế như sau:

“Phát hiện đi kèm với sự khẳng định công khai về chủ quyền tạo ra, không hơn không kém, quyền sở hữu tạm, chưa hoàn chỉnh,có khả năng loại bỏ các nước thứ 3 khỏi lãnh thổ nơi quyền này áp dụng, trong một thời gian cần thiết cho sự phát triển của quyền sở hữu thông qua việc chiếm giữ, nhưng không phải vô hạn định, mà đủ thời gian để người sở hữu có thể bổ sung bằng việc chiếm hữu thực sự, việc phát hiện không thể thay thế cho việc chiếm hữu thực sự.”  

“Discovery accompanied by a public affirmation of sovereignty creates no more than an inchoate title capable of removing third States from the territory to which it applies, during the time necessary for its development through occupation, but not indefinitely, as it is enough to enable its possessor to supplement it by actual occupation, that cannot be a substitute for it.”[49]

 “…tuyên bố về chủ quyền không chỉ dựa trên một vài hành động hay sở hữu cụ thể như một hiệp ước nhượng lại mà còn dựa trên sự triển khai liên tục về quyền lực, liên quan đến hai yếu tố mà mỗi yếu tố ấy phải được thể hiện rõ sự tồn tại thực tế của: ý định và ý chí thực hiện chủ quyền, và một số hành động thực hiện cụ thể và hay triển khai phô trương quyền lực này.

“...a claim to sovereignty based not upon some particular act or title such as a treaty of cession but merely upon continued display of authority, involves two elements each of which must be shown to exist: the intention and will to act as sovereign, and some actual exercise or display of such authority.”[50]

 Đối với yêu cầu giành chủ quyền thông qua việc cư trú, hành động chiếm hữu chủ động, liên tục, và không gián đoạn là đòi hỏi của các đạo luật từ thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 - một nguyên tắc luật mãi cho đến năm 1885 mới được công nhận tại Hội nghị Berlin. Những tuyên bố của hội nghị này không có giá trị hồi tố.”

“For to require of the acquisition of sovereignty by occupation an active taking of possession, uninterrupted and permanent, is to apply to acts dating from the 18th century and the early 19th century a principle of law not proclaimed until 1885 by the Berlin Conference; the declarations of that Conference cannot have retroactive effect.”[51]

Trung Quốc đáng lẽ có thể đã đạt được sở hữu tạm, không đầy đủ nhưng đã không đưa ra tuyên bố yêu sách chính thức về chủ quyền trong suốt hơn 1 ngàn năm. Sau này Trung Quốc tuyên bố chính thức thì lại đến sau khi Việt Nam đã tuyên bố chính thức và đã hoạt động ở trên những quần đảo Hoàng Sa trong một thời gian dài mà không có sự phản đối của bất cứ nước nào.  Điều này sẽ được bàn cụ thể thêm ở phần sau.

Các vấn đề (2), (3), và (4) về việc thực thi quyền sở hữu (ghi trên bản đồ, và sự hiện diện của người Trung Quốc), Trung Quốc và tất cả các học giả của họ đều dựa trên bản đồ phổ thông, do tư nhân thực hiện hoặc tài liệu du lịch, không phải tài liệu quốc gia chính thức, để chứng minh cho yêu sách chủ quyền của họ hoặc là cố tình phân tích sai. Tuy nhiên, theo thực tiễn luật quốc tế hiện nay, chỉ những yêu sách được đưa ra bởi nhà nước và được phản ánh bằng các hành động của chính quyền trung ương mới có thể có hiệu lực pháp lý (Vấn đề này sẽ được bàn thêm sau này).

Không thể xác định các văn bản nêu trong Tuyên bố 2000 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vì không có tài liệu tham khảo. Bản đồ Lộ trình đề cập dường như chỉ là một tài liệu hướng dẫn chỉ đường cho các ngư dân. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải kiểm tra một số tài liệu được các học giả Trung Quốc đề cập và sử dụng như là bằng chứng chứng minh quyền sở hữu của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một trong những văn bản quan trọng mà các học giả Trung Quốc viện dẫn là Mộng Lương Lục (Meng Liang Lu 梦梁录, Ghi chép giấc mơ về thủ đô) do Ngô Tự Mục (Wu Zimu (吴自牧) viết năm 1275. Nó miêu tả Hoàng Sa theo cách mà bây giờ chúng ta biết, gần tuyến đường vận chuyển từ Trung Quốc tới phương Nam, đi dọc theo bờ biển của Việt Nam:

“Sau khi đi được 70 chang, họ đi vào Thất Châu Dương (Ch’i- Chou Yang) (biển 7 đảo) và tiến xa hơn tới biển K’n-lun (tức Poulo Condore), Sha-mo, She-lung, và Tao-chi, (họ đã gặp) những con sóng lớn cao tới thiên đàng. Hơn nữa, gần với các đảo và đá, biển rất nông và tàu của họ có khả năng bị đập tan. Họ hoàn toàn phụ thuộc vào kim chỉ nam, và chỉ cần lệch hướng một chút, họ sẽ trở thành mồi cho cá. Những người đi biển từ thời cổ xưa đã phải kêu lên rằng: “Đi ra, sợ Thất Châu, trở về sợ Côn Đảo.”[52]

Thất Châu Dương, Ch’i-Chou Yang (七洲洋, Qi Zhou Yang, trong tiếng phiên âm mới thay vì kiểu Wade-Giles, là tên Trung Quốc gọi biển từ phía Hồng Kông đi theo phía đông và xuống phía nam đảo Hải Nam, tới khoảng miền trung Việt Nam và K’un-lun là Poulo Condore hay tên của hòn đảo Côn Đảo hiện nay đang nằm ngoài khơi bờ biển miền Nam Việt Nam. Những chuyến đi biển được mô tả ở đây, nếu là nhằm phục vụ mục đích thương mại, chắc chắn là không thể qua Trường Sa bởi chúng rất xa tuyến đường vận chuyển gần bờ biển Việt Nam.

Marwyn S. Samuels khi xem xét tài liệu về đô đốc và cũng là nhà thám hiểm nổi tiếng đầu nhà Minh là Trịnh Hòa (Zheng He 郑和  hay phiên theo Wade-Giles của Samuels là Cheng Ho) (1371-1433) - người đã từng vượt biển ĐNA với 3 nghìn con tàu và hơn 20.000 lính – cho rằng hầu hết các báo cáo chính thức và những ghi chép/hồ sơ về các chuyến đi đã bị mất hoặc bị phá hủy do chính sách chống hàng hải sau này của nhà Minh. Những bản tường thuật còn sót lại viết bởi Mã Hoan (Ma Huan 馬歡) năm 1435 và được đặt tên là Doanh Nhai Thắng Lãm (瀛涯胜览Ying gai sheng lan,  Triumphant Vision of the Ocean Shores) chỉ nhắc lại những gì đã từng được viết bởi Ngô Tự Mục (Wu Zimu). [53] Những tài liệu này không phải là chính sử.

Vị trí của tuyến đường vận chuyển thường xuyên cho phép ta kết luận là người đi tàu thuyền có thể thấy Paracels (Hoàng Sa) và Macclesfield Bank (Trung Sa theo tên Trung Quốc gọi). Coi bản đồ Biển ĐNA ở dưới.
 

Bn đ 3. Bin ĐNA và v trí đường hàng hi và đa danh thi c [54]

 

Samuels kết luận:

 “.. Cần phải lưu ý rằng cho tới nay không có các nguồn trích dẫn nào đề cập đến Trường Sa. Chắc chắn rằng, các tài liệu tham khảo mang tính chất mơ hồ chung chung liên quan đến Vạn lý Thạch Đường có thể bao gồm các rạn san hô, đá, những bờ cát và các đảo nhỏ của biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, giả định rằng Thất Châu Dương chính là vùng biển ngay vùng đông nam đảo Hải Nam, điều  xác định dễ chấp nhận hơn là  vạn lý thạch đường ở vị trí quần đảo Paracels (Hoàng Sa) và Macclesfield Bank (Trung Sa).”

Trịnh Hòa (Zhenghe) đã có thể cắm cờ Trung Quốc trên toàn bộ biển ĐNA và biến nó trở thành một cái hồ của Trung Quốc, nhưng ông ta đã không bao giờ làm như vậy, và cũng không có lý do hay chứng cứ rõ ràng là ông ta đã đi qua khu Trường Sa qua điều Ngô Tự Mục viết đã dẫn ở trên và qua điều Samuels diễn giải. Các nhà chức trách Trung Quốc chưa từng để mắt tới biển ĐNA mãi cho đến năm 1902 khi phái Lý Chuẩn ra đó xem xét lần thứ nhất và năm 1909 ra đó dựng cờ chủ quyền.[55] Ngay cả khi Trung Quốc chú ý tới biển ĐNA, họ quan tâm nhiều hơn tới các vùng đất có thể chiếm đóng hơn là vùng biển chỉ có những hòn đảo nhỏ bé và ít tài nguyên được thấy vào lúc đó, chẳng hạn lúc đầu chỉ để ý đến đảo Phú Lâm (Woody Islet) trong quần đảo Paracels (Hoàng Sa).

Rất ngạc nhiên là nhiều học giả Trung Quốc như Teh-Kuang Chang[56] đã sử dụng những cuốn sách du lịch viết bởi hay viết lại sau khi nghe thủy thủ và các nhà thám hiểm Trung Quốc nói. Các sách mà mà ông ta đề cập tới trong bài là sách của người du lịch và thám hiểm, chỉ dẫn gồm: “Mộng Lương lục/ Meng Liang Lu (Record of a Day-Dreamer) thời nhà Tống, Đảo Di chí lược/ Dao Yi Zhi Lu (Beef Account of the Islands) thời nhà Nguyên, Đông Tây dương khảo/ Dong Xi Yang Kao (Studies on the Oceans East and West) và Thuận phong tương tống/ Shun Feng Xiang Song (Fair Winds for Escort) thời nhà Minh, Chỉ nam chính pháp/ Zhi Nan Zheng Fa (Compass Directions) và Hải Quốc văn kiến lục/ Hai Guo Wen Jian Lu (Records of Things Seen and Heard About the Coastal Regions) thời nhà Thanh (Qing dynasty) và Canh lộ bạc [bộ] / Geng Lu Bu (Manuals of Sea Routes) sách hướng dẫn cho dân chài của nhiều thế hệ.”

Những tấm bản đồ về vùng đất bên ngoài cương vực Trung quốc (trong các bản đồ thế giới theo con mắt hạn hẹp của người Trung Quốc lúc đó) cũng được sử dụng để chứng minh rằng biển ĐNA là một cái hồ của Trung Quốc và để khẳng định những vị trí được đề cập tới như, “changsha, Trường Sa” cho quần đảo Paracels (Hoàng Sa) và “shitang, Thạch Đường” cho  quần đảo Spratlys (Trường Sa) là thuộc lãnh thổ của Trung Quốc.[57] Với học giả nước ngoài, không hiểu văn hóa Trung Quốc, không phân biệt nổi đâu là sách gì, thì việc làm của học giả Trung Quốc có ảnh hưởng nhất định, chính vì thế mà các bài viết của các tác giả trên mới đượcc xuất bản ở các tạp chí khoa học nước ngoài.

Những vùng đất bên ngoài ở phía Đông Trung Quốc thường được gắn với di (Yi, chỉ những người man di ở phía Đông), chư phiên (zhufan, 諸番 chỉ tất cả những người man di hay người nước ngoài) hoặc lịch sự hơn là thiên hạ (tianxia, 天下) có nghĩa là thế giới. Những tấm bản đồ của các triều đại (ví dụ, – Qing ben tu, Thanh bản đồ, bản đồ trên cơ sở nhà Thanh, bao gồm cả các nước được đặt dưới sự thống trị của Trung Quốc hoặc được coi là chư hầu.

Ví dụ, tác giả Jian Ming Shen, người đã tự nhận là có ảnh hưởng đến việc viết Tuyên bố năm 2000 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (nói đến ở trên), đã trích lời giáo sư Wu Fengbin của Đại học Hạ Môn, người đã dùng các bản đồ hay những cuốn sách sau như là chứng cứ: Thanh giáo quảng bị đồ (Shengjiao Guang beitu, 聲教廣被圖, Map of the Vast Reach of [China's Moral] Teaching, 1330), Dư địa đồ (Yudi Tu, 與地圖, Terrestrial Map-bản đồ vùng đất thêm vào, 1311-1320) do nhà đạo học Zhu Siben (朱思本) vẽ, Đông nam hải di đồ (Dongnan Hai Yi Tu, 東南海夷, Map of Barbarians in the Southeast Sea-bản đồ của người man di ở Biển Đông Nam Á),  Tây nam hải di đồ, Xinan Hai Yi Tu, 西南海夷圖, Map of the barbarians in the Southwest Sea-bản đồ của người man di ở Biển Tây Nam Á).  Ít nhất một số bản đồ này với chữ Yi (man di) là nói về người nước ngoài, bản đồ phát triển ảnh hưởng của đạo đức Trung Quốc hoặc về vùng đất thêm cũng là bản đồ nói về các nước ngoài cương vực Trung Quốc.  Và tất cả những bản đồ nói đến ở trên được dùng làm chứng cứ là do cá nhân vẽ, không thuộc chính sử.

Dạng bản đồ này được miêu tả khá kỹ lưỡng trên Wikipedia [58], có kết hợp một số công trình nghiên cứu quan trọng về các bản đồ Trung Quốc, có sự đóng góp quan trọng của giáo sư  Richard J. Smith của Đại học Rice.[59] Tấm bản đồ Thanh giáo quảng bị đồ (Shengjiao Guang beitu) mà giáo sư Wu Fengbin (đã mất) đề cập đến là nguồn gốc của những tấm bản đồ khác về “thế giới” nhìn dưới quan điểm của một học giả Trung Quốc, không phải là một tấm bản đồ chính thức. Theo Giáo sư R. J. Smith, bản đồ này do Lý Trạch Dân (Li Zemin) vẽ năm 1330 dưới thời nhà Nguyên. Dự địa đồ (Yudi Tu) là do một nhà sư Đạo giáo tên là Châu Tư Bản (Zhu Siben, (朱思本)  vẽ trong khoảng thời gian từ 1311-1320, dựa trên cơ sở chuyên khảo địa lý Trung Quốc có tên Cửu Vực Chí (Jiuyu Zhi, 九域志) của ông năm 1297, nhưng cũng đã bị thất lạc. Đông nam hải di đồ (Dongnan Hai Yi Tu) và Tây Nam hải di đồ (Xinan Hai Yi Tu) được xem là bản sao của một nửa phía Nam của Thanh giáo quảng bị đồ (Shengjiao Guang beitu) do La Hồn Tiên (Luo Hongxian, 羅洪先) vẽ năm 1555 nhưng tên của hầu hết những địa điểm này ngoại trừ khu vực duyên hải và các đảo đã bị lược bớt/không được nhắc đến.

Tất cả những tấm bản đồ này xuất phát từ cùng một nguồn và là những tấm bản đồ của thế giới, từ “Yi” () nói lên tất cả và hé lộ rằng không có gì là ngạc nhiên nếu như “changsa” chính là ‘Hoàng Sa’ và ‘shitang” là “Trường Sa.” Nó chỉ nói lên đó là địa danh nằm ngoài cương vực nước Trung Quốc.

Monique Chemillier-Gendreau đã tóm lược đánh giá cô đọng của bà về một danh sách dài những văn bản của Trung Quốc mà các học giả nước này đã viện dẫn là ‘không có giá trị làm bằng chứng”, như sau:

Trong một số tài liệu của Trung Quốc, trích dẫn từ các công trình nghiên cứu địa lý được dùng hỗ trợ cho yêu sách của Trung Quốc đối với các hòn đảo. Và những hòn đảo này thực sự đã được đề cập và mô tả mặc dù đó là những công trình nghiên cứu các quốc gia khác chứ không phải mô tả Trung Quốc, chúng không có giá trị làm bằng chứng. Giống như tất cả các nhà địa lý học tìm kiếm các dữ liệu phổ quát, các nhà địa lý Trung Quốc và những người chép biên niên sử tập trung vào miêu tả tỉ mỉ các vùng lãnh thổ, mà không nhất thiết đặt dưới chủ quyền của Trung Quốc. [60]

2. Chứng cứ hành xử chiếm đóng thường trực, dài lâu trước Việt Nam?

Rốt ráo, yêu sách chủ quyền là một vấn đề trong quan hệ luật pháp giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc “chiếm giữ, để tạo được yêu sách chủ quyền lãnh thổ, phải có hiệu lực, đó là, thực hiện một số bảo đảm nhất định đối với các quốc gia khác và công dân của họ.”[61] Trung quốc đã không đáp ứng được điều kiện pháp lý này, tức là khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa trước khi Gia Long, Hoàng đế Việt Nam làm điều này. Những tài liệu chính thức của Trung Quốc soạn bởi các sử gia hoàng gia dưới triều Minh và triều Thanh chưa từng đề cập tới quần đảo Hoàng sa và Trường Sa là những vùng lãnh thổ của Trung Quốc.

Hồ Bạch Thảo lập luận rằng Đài Loan, một hòn đảo rất lớn và rất gần với Trung Quốc đại lục mà nhà Minh không thâu tóm vào thành một bộ phận lãnh thổ Trung Quốc  thì khó cho rằng họ xem Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Những cư dân đầu tiên trên đảo Đài Loan là người Austronesian, và năm 1624 bị Hà Lan chiếm làm thuộc địa. Chỉ sau đó, Đài Loan mới tiếp nhận một dòng người Hán Trung Quốc từ khu vực tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông. Với dân số Trung Quốc lớn, năm 1662, Zheng Cheng-gong, (成功, Trịnh Thành Công), một người trung thành với nhà Minh, đã đánh bại người Hà Lan và thành lập một cơ sở hoạt động trên hòn đảo này. Lực lượng của Zheng sau đó bị triều Thanh đánh bại năm 1683, từ đó Đài Loan thuộc Trung Quốc. Từ Hồ Bạch Thảo xem xét Minh Sử  (Ming Shi,  lịch sử triều Minh, 明史) [62] trong bài viết của ông. Đây là bộ lịch sử chính thức về triều Minh nhưng được chuẩn bị ở thời nhà Thanh, trong đó có viết về nước ngoài Trung Quốc từ quyển () 320 tới quyển 325. Đài Loan được gọi là Kê Lung Sơn (Ji Long Shan, (雞籠山) được nhắc trong quyển 323, chuyện số 211 (列傳第Liezhuan Di 211), ngoại quốc số 4 (外國四, waiguo 4). Như vậy Đài Loan được coi là nước ngoài.

Hãy xem ghi chép của vương triều nhà Thanh, cuốn Khâm định Đại Thanh Nhất Thống Chí (Qinding Da Thanh Yi Tong Zhi, (钦定大清一统志).[63] Theo quyển số 1, sách đã được thực hiện theo yêu cầu của Vua Càn Long (乾隆) trong năm cầm quyền thứ 8 (1743) và gồm 424 quyển. Cuốn Khâm định Đại Thanh Nhất Thống Chí là tư liệu hoàng gia và do đó, phản ánh thực tế những vùng đất có chủ quyền của Trung Quốc. Nghiên cứu các văn bản này, Nguyễn Quang Ngọc[64] không tìm thấy bất kì tham khảo nào về bất kì cái tên nào tương ứng với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như Vạn lý Thạch Đường (Wanli Shitang, 萬里石), hay Thiên lý Trường Sa (Qianli Changsha, 千里長沙). Với những tài liệu sẵn có trên mạng như thế này của Trung Quốc, ta có thể dễ dàng kiểm chứng kết luận này.

Hồ Bạch Thảo cũng xem xét cuốn Thanh Sử Cảo (Qing Shi Gao, 清史稿, Lịch sử vương triều nhà Thanh), tương tự như những cuốn sách về các vương triều khác của Trung Quốc, mất gần 10 năm soạn thảo thời Trung Hoa Dân Quốc va dựa vào các văn bản chính thức.  Thanh Sử Cảo gồm 536 quyển. Chỉ riêng về địa lý, bộ này gồm 28 quyển, tuy nhiên, các tên về Hoàng Sa và Trường Sa như Vạn lý Thạch Đường  (Wanli Shitang, 萬里石), Thiên lý Trường Sa (Qianli  Changsha,(千里長沙) và những tên hiện tại như Tây Sa ( Xisha,  (西沙) và Nam Sa (Nansha, 南沙) cũng không xuất hiện trong bất kỳ văn bản nào.[65]

Theo Thanh Sử Cảo, tỉnh Quảng Đông được chia làm 6 đạo (), Đảo Hải Nam nằm trong đạo Quỳnh Nhai (Qiong Ya dao (琼崖道). Đạo Quỳnh Nhai bao gồm phủ Quỳnh Châu (Qiong Zhou fu, 琼州府) và Nhai Châu (Ya Zhou, 崖州). Không hề có chỗ nào cái tên Hoàng Sa và Trường Sa hoặc biển ĐNA được nhắc tới. 

Cùng với việc kiểm tra Thanh Shi Gao, Hồ Bạch Thảo cũng kiểm tra Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ (Da Thanh yi tong quan tu, 清一 統全 , Bản đồ hoàn chỉnh của nhà Thanh). Đây là một bản đồ rất toàn diện của nhà Thanh và đem so với cuốn Thanh Sử Cảo, các vùng đất và tên gọi hoàn toàn trùng khớp. Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ (là bản đồ được thu thập ban đầu bởi London Missionary Society và hiện thuộc Thư viện Quốc gia của Australia. Phiên bản điện tử có thể dễ dàng kiểm chứng. [66] Ngày xuất bản bản đồ có thể dự tính ở khoảng 1800 – 1899 và tác giả của bản đồ này là khuyết danh.

Tuy nhiên, vì bản đồ này đã chịu ảnh hưởng của công nghệ vẽ bản đồ phương Tây, do đó, nó phải được chuẩn bị trong giai đoạn vương triều Quang Tự (Guang Xu, 光緒) khoảng 1875 - 1908. Bản đồ gồm 20 phần. Phần 1 thể hiện toàn bộ đế chế nhà Thanh, và phần 12 thể hiện tỉnh Quảng Đông.  Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ cũng tương thích hoàn toàn với bản đồ Đại Thanh được xuất bản bởi ĐH Oxford năm 1910.[67] Hai bản đồ này được sao chép lại phía dưới. Phần 12 lại đi vào chi tiết địa danh Đảo Hải Nam, cũng được sao chép lại ở dưới.

Cũng tương tự như Hồ Bạch Thảo, Phạm Hoàng Quân đã nghiên cứu bản đồ chính thức của Quảng Đông thời nhà Thanh và Trung Hoa Dân Quốc, và cho thấy rằng tỉnh Quảng đông chấm dứt ở Đảo Hải Nam, và không có các địa danh Tây Sa (Paracels), Nam Sa (Spratlys) hay các địa danh Thiên lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường. Bản đồ tỉnh Quảng Đông này được xuất bản trong toàn tập Quảng Châu lịch sử địa đồ tinh túy   do Phòng Lưu trữ Hồ sơ Lịch sử số 1 thuộc Tổng cục Lưu Trữ Trung ương Trung Quốc phối hợp với Cục Lưu trữ thành phố Quảng Châu công bố năm 2003. Toàn tập tuyển chọn 97 bức, gồm bản đồ thế giới, địa đồ Trung Quốc, tỉnh Quảng Đông, thành phố quẩn Châu và các phủ huyện do quan chức hành chính, quân sự soạn vẽ in trong triều Thanh và thời Trung Hoa Dân Quốc.[68]  

Không nghi ngờ gì rằng nhà Thanh kết thúc năm 1911 không bao giờ tuyên bố chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và biển ĐNA. Các năm 1902 và 1909, chính quyền Quảng Đông có một số hoạt động hướng tới quần đảo Hoàng Sa nhưng không có hành động nào của Chính phủ trung ương phản ánh sự hiện diện của Nhà nước và không có một tuyên bố chính thức nào được đưa ra. (Xem biên niên sử cùng với các tài liệu tham chiếu ở footnote). Năm 1951, Chu Ân Lai, ngoại trưởng Trung Quốc, lần đầu tiên tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa, tuyên bố này đi sau tuyên bố của Pháp năm 1933 là 18 năm.   

 

Bản đồ 4.  Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, phần 12. 
Đảo nhỏ ở phía tay trái là Đảo Hải Nam.
Gần đó là Giao Chỉ (Jiao Zhi,
交趾), tên Trung Quốc gọi nước Việt Nam và Lào (Lão Qua, ).
Đảo lớn hơn là Đài Loan

 

Bản đồ 5.  Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, phần 12, đi vào chi tiết Đảo Hải Nam.
 

Bản đồ 6. Trung Quốc thời nhà Thanh chấm dứt ở Đảo Hải Nam,
Đại Học Cambridge xuất bản năm 1910

 

B. Yêu sách chủ quyền của Việt Nam

Việt Nam hiện nay coi toàn bộ quần đảo Hoàng Sa gồm cả hai nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent) trong đó có đảo Hoàng Sa, và An Vĩnh (Amphitriet) trong đó có đảo Woody (Phú Lâm) là thuộc Việt Nam.  Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố “hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam.”[69]

Tài liệu nội bộ mới nhất của Ban Biên Giới Bộ Ngoại giao cho rằng:

“[H]ai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các đảo vô chủ cho đến thế kỷ XVII”, và:

 Nhà nước Việt Nam trước kia là người đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và tiến hành quản lý, khai thác với danh nghĩa Nhà nước đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là những quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất kỳ một quốc gia nào; việc chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam từ trước đến nay đối với hai quần đảo là thực sự liên tục và hoà bình phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế đương thời và hiện đại.

Quan điểm pháp lý này được coi là dựa trên tài liệu lịch sử, mà ở trên đã trình bày, là trước khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền thì Trung Quốc chưa bao giờ coi Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa) cũng như Biển ĐNA là lãnh thổ của họ. Phần này sẽ xem xét yêu sách của Việt Nam dựa chứng cứ lịch sử. Paracels và Spratlys sẽ được xem xét riêng biệt.  Để khỏi lẫn lộn Quần đảo Hoàng Sa và đảo Hoàng Sa, tác giả sẽ dùng danh xưng quốc tế.

1. Yêu sách về quần đảo Paracels và chứng cứ lịch sử

Liệu có khi nào Hoàng Sa bao gồm toàn bộ quần đảo Paracels (Hoàng Sa)? Liệu chủ quyền của Việt Nam có được thực hiện rõ ràng và liên tục ở toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa là câu hỏi cần được trả lời.

Những ghi chép lịch sử quan trọng nhất ở Việt Nam là:

  1. Phủ Biên Tạp Lục (府編雜) do Lê Quý Đôn soạn sau năm 1776 và trước khi ông mất năm 1784;

  2. Đại Nam Thực lục Tiền Biên (大南寔錄先編, Veritable Records of Pre Đại Nam) [70] and Đại Nam Thực Lục Chính Biên (大南寔錄正編, Veritable Records of Đại Nam): Cả hai cuốn xuất bản năm 1848; và

  3. Đại Nam Nhất Thống Chí (大南一统志, Complete Geography of Đại Nam) bắt đầu năm 1865, và kết thúc vào năm 1882 và được in năm 1910;[71]

  4. Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ (大南 統全 , Complete Map of Đại Nam).[72]

Đại Nam Nhất Thống Chí sẽ không được thảo luận sâu bởi nó cũng phản ánh những thông tin giống như các văn bản số (1) và số (2). Cũng có nhiều văn bản lịch sử cổ khác đề cập đến quần đảo Hoàng Sa (1686), như Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư [73], nhưng chúng tôi cũng bỏ qua trong bản nghiên cứu này bởi vì bản đồ Hoàng Sa còn giữ lại, được H. Maspero nghiên cứu và được G.Dumontier vẽ lại với nhiều chi tiết hơn trong Étude sur un Portulan Annamite du XV siècle vẫn không rõ nguồn gốc cũng như không phải là văn bản chính thức quốc gia. [74] Việc bỏ qua này không phủ nhận về tính thuyết phục và sức mạnh của tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Đại Nam Thực lục Chính biên là bộ sử biên niên của triều Nguyễn, trong giai đoạn 1802 - 1948. Nó bao gồm 560 quyển và được chia làm 2 phần. Phần 1, Đại Nam Thực Lục Tiền Biên ghi chép các hoạt động của Chúa Nguyễn trong thời kì vương triều nhà Lê, bắt đầu với việc Nguyễn Hoàng được cử để trấn ở Thuận Hóa (1558) cho đến khi gia đình họ Nguyễn thống nhất đất nước và trị vì Đại Nam như là một vương quốc. Phần này gồm 12 quyển được viết muộn hơn bởi nhà Nguyễn dựa vào trí nhớ của những người kế nhiệm. 

Phần thứ 2, Đại Nam Thực Lục Chính biên ghi chép các sử kiện bắt đầu với sự ra đời của triều vua Nguyễn khi đất nước thống nhất năm 1802 cho đến thời vua Khải Định (1925). Cuốn này bao gồm 7 tập và 548 quyển. Tập dày nhất là tập 2, về thời kì vua Minh Mạng với 222 quyển. 

Hai phần của Đại Nam Thực Lục bắt đầu soạn từ năm 1821 dưới thời vua Minh Mạng. Các cuốn này, theo phong tục, được viết sau khi nhà vua mất do đó sẽ bao gồm các nhận xét cả tích cực và tiêu cực về hoạt động củanhà Vua nhưng phải dựa trên những ghi chép hằng ngày cũng như các quyết định do nhà vua ký với con dấu của vua. Các ghi chép và quyết định hằng ngày được sao làm 3 bản, một được giữ tại Quốc Sử Quán (Quốc Sử Quán, 国史館). Hoàng Sa (黄沙) vàTrường Sa (長沙) được nhắc đến trong quyển 52 (1816) dưới thời vua Gia Long và nhắc 4 lần trong quyển 104 (1833), quyển 122 (1834), quyển 154 (1835) và quyển 165 (1835) soạn dưới thời vua Minh Mạng.[75] Những sự kiện được ghi chép này xem như là hoạt động chính thức của nhà nước. 

Phủ  Biên Tạp lục– xem trong Hộp 1 – ghi chép là mỗi năm các chúa Nguyễn, ngay từ những năm 1770s đã gửi tàu thuyền và các thủy thủ tới Hoàng Sa (quần đảo Hoàng Sa). Họ có thể ở lại cao nhất là mỗi năm khoảng 6 tháng. Tác giả cuốn sách, Lê Quý Đôn đã chỉ rõ rằng Hoàng Sa gần đảo Hải Nam của Trung Quốc và thậm chí viết trên cơ sở ghi chép của hoàng gia cho hay chuyện các thủy thủ được chúa Nguyễn cử tới Hoàng Sa và thuyền của họ bị trôi dạt vào đảo Hải Nam, họ bị các quan chức Trung Quốc tiếp nhận và trả lại cho Việt Nam.

Vua sai các quan chức Việt Nam viết thư cảm ơn các quan chức Trung Quốc. Không nghi ngờ gì nữa rằng các quan chức Trung Quốc đã nhận thức Hoàng Sa là đảo của Việt Nam. Nếu không, các thủy thủ Việt Nam có thể đã bị bắt giữ và trừng phạt vì đã xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc.

Toán thủy quân hoàng gia lên tới 70 người tiếp tục được gửi tới Hoàng Sa thời vua Gia Long và sau đó là thời vua Minh Mạng đã được ghi chép trong Đại Nam Thực lục Chính biên (xem Hộp 2), bao gồm việc xây dựng miếu, trồng cây và vẽ bản đồ các đảo.  Các vua Việt Nam rõ ràng Paracels là lãnh thổ của mình và do đó đã cố gắng chỉ đạo chặt chẽ hoạt động và ghi chép vào chính sử. Mỗi năm các hoàng đế đều cử các biệt đội tới đây. Vua Minh Mạng theo chính sử đã ra lệnh vẽ bản đồ cụm đảo, trồng cây và thậm chí xây dựng miếu (xem box 2). Từ thời nhà Nguyễn ở Đàng Trong cho đến năm 1938 mà chính sử còn viết lại, suốt 70 năm, Paracels thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam.

Bài viết này cho in lại sáu đoạn trong cuốn Đại Nam Thực Lục đã được dịch ra tiếng Việt. Cũng có 5 đoạn bổ sung trong các văn bản chính thức khác nhưng sẽ không được đính kèm theo tại đây vì lí do đơn giản là chúng không đưa thêm các thông tin bổ sung nào mới so với các văn bản này.

HỘP 1           

Phủ Biên Tạp Lục (府編雜) tác giả Lê Qúi Đôn (1726-1784).  

Ngô Thời Sĩ đề lời bạt sách Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Ðôn có đoạn như sau :

Mùa đông năm Giáp Ngọ [1774], phụng theo ý chí cương quyết của Thánh nhân [Trịnh Sâm], tự làm tướng cầm quân, đánh lấy được thành [Phú Xuân], thu lại cõi đất đã bị mất hẳn, lại thống nhất đất nước. Mùa xuân năm Bính Thân [1776] Tướng công Quế Ðường [Lê Quý Ðôn] ta vâng mệnh làm Hiệp trấn phủ, kiêm coi việc quân. Mùa thu năm ấy khi đã về triều, có đưa sách này cho tôi coi. Trong sách này viết về hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam chép đủ sông, núi, thành ấp, ngạch lính, lệ thuế má, nhân tài, sản vật, cùng là việc họ Nguyễn đời nọ nối đời kia, ...

Phủ biên tạp lục

Quyển thứ 2, trang 51

….

Tại xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển lớn có đảo núi tên là cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, xưa có cư dân là phường Tứ Chính khẩn đất, phải đi biển mất 4 canh mới ra tới đó. Phía ngoài đảo này là đảo có tên cũ Ðại Trường Sa, có nhiều sản vật biển và hàng hoá tại thuyền, nên lập đội Hoàng Sa để lấy. Phải đi 3 ngày đêm mới tới, xứ này gần Bắc Hải.

Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ở gần biển. Ngoài biển phía đông bắc có nhiều đảo núi lớn nhỏ linh tinh có đến hơn 110. Các núi đảo tương cách nhau bởi biển; hoặc một ngày đường, hoặc một vài canh. Trên có khe nước ngọt, giữa đảo có bãi cát vàng dài khoảng hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong nhìn đến đáy, trên đảo tổ yến nhiều vô số ; chim có đến hàng ngàn, hàng vạn quây quần xung quanh không tránh người. Trên bờ các vật lạ rất nhiều như ốc hoa văn, có loại gọi là ốc tai tượng to bằng chiếc chiếu, bụng có hạt lớn bằng ngón tay màu đục, không bằng ngọc trai, vỏ có thể tạc ra làm [mộ] bia, lại có thể chế vôi xây nhà ; có loại tên là xà cừ có thể làm đồ trang sức, có các loại ốc hương có thể muối [làm thức ăn] ; đồi mồi có loại tên là hải ba tục gọi là trắng bông, tuy giống đồi mồi nhưng nhỏ ; vỏ mỏng bên ngoài có thể chế làm đồ trang sức, trứng bằng đầu ngón tay có thể dùng để muối ăn. Có loại hải sâm, tục gọi là con đột đột, bơi lội bên bờ ; bắt được chà xát qua vôi, bỏ ruột, rồi phơi khô ; lúc ăn ướp với tương cua, ăn cùng với tôm và thịt heo thì tốt. Tàu bè các nước gặp bão bị hư tại đảo này rất nhiều.

Họ Nguyễn lập đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy người xã An Vĩnh luân phiên sung vào. Mỗi năm từ tháng giêng nhận lệnh đi, mang 6 tháng lương thực, dùng 5 chiếc thuyền đánh cá vượt biển 3 ngày 3 đêm thì tới nơi. Tại đó mặc tình bắt cá chim để ăn ; nhặt được các đồ trên thuyền gồm các thứ thuộc loại bạc thiệt [kim loại bạc] như ngựa kiếm bạc, hoa bạc, tiền tệ bằng bạc, vòng bạc ; đồ bằng đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp vàng, chăn, đồ sành sứ. Lại lấy vỏ đồi mồi, hải sâm, ốc có hoa văn khá nhiều.

Ðến tháng 8 trở về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân [Huế] nạp. Sau khi cân và xét nghiệm phân loại xong, hứa cho riêng bán các vật như ốc hoa văn, hải ba, hải sâm, lãnh bằng trở về. Những đồ vật lấy được nhiều ít không chừng, có khi về người không. [Ta] từng tra sổ bạ của viên Cai đội cũ Thuyên đức hầu, vào năm Nhâm Ngọ [1762] nhặt được 30 hốt bạc, năm Giáp Thân [1764] được 5100 cân thiếc, năm Ất Dậu [1765] được 126 hốt bạc ; từ năm Kỷ Sửu [1769] đến năm Quý Tỵ [1773] trong thời gian 5 năm, được mấy cân đồi mồi, hải sâm ; có lúc có thiếc khối, bát sứ cùng 2 khẩu súng đồng mà thôi.

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, số lượng không định, dùng người thôn Tứ Chính thuộc phủ Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương. Kẻ tình nguyện được cấp giấy đi miễn cho thuế sưu, thuế bến đò. Họ sử dụng thuyền câu nhỏ của tư nhân đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, cù lao Hà Tiên đánh bắt đồi mồi, hải ba, cá heo, bào ngư, hải sâm ; lệnh cho đội Hoàng Sa quản nhiếp. Bất quá họ chỉ thu thái được hải sản, còn các loại hàng hoá quan trọng như vàng bạc, ít khi bắt gặp.

Bãi Hoàng Sa gần với Hải Nam, châu Liêm. Người trên thuyền thường gặp người phương Bắc [Trung Quốc] đánh cá ngoài biển, hỏi thăm thì được biết họ là người huyện Văn Xương, Quỳnh Châu. Quan Chính đường sưu tra công văn trong đó kể rằng vào tháng 7 năm Càn Long thứ 18 [1753], 10 người lính thuộc đội Cát Liêm, xã An Bình, huyện Chương Nghĩa (1) đến Vạn Lý Trường Sa 萬里長沙 thu thập các vật, 8 tên lính lên bờ thu thập, chỉ có 2 người lưu lại giữ thuyền. Chợt cuồng phong nổi lên, đẩy thuyền xa đến cảng Thanh Lan 青瀾港 (2)[Trung Quốc], viên quan tại đây điều tra sự thực bèn cho áp giải trở về. Nguyễn Phúc Chu sai Cai bạ Thuận Hoá Thức lượng hầu gửi thư phúc đáp.

 

 

HỘP 2 

 Ðại Nam Thực Lục Chính Biên

Kỷ thứ nhất, quyển 52.

Thế Tổ Cao Hoàng đế [Gia Long] Thực Lục

Năm Bính Tý [1816] Gia Long thứ 15, tháng giêng mùa xuân.

…Mệnh thuỷ quân cùng đội Hoàng Sa dùng thuyền đến Hoàng Sa thăm đo thuỷ trình…

 


Ðại Nam Thực Lục Chính Biên

Kỷ thứ hai, quyển 104.

Thánh Tổ Nhân Hoàng đế [ Minh Mệnh] Thực Lục

Năm Quý Tỵ [1833], Minh Mệnh thứ 14, tháng 8 mùa thu…

Nhà vua bảo bộ Công rằng tại biển Quảng Ngãi có một dãy Hoàng Sa, nhìn xa trời nước một màu không phân biệt được nông sâu, từ trước tới nay thương thuyền thường bị hại. Nay nên chuẩn bị thuyền bè, đến năm sau đến đó xây miếu, lập bia và trồng nhiều cây. Chờ mai sau cây mỗi ngày một lớn tốt tươi để dễ nhận biết, ngõ hầu khỏi lầm chổ cạn; đó là điều lợi vạn năm vậy.


Ðại Nam Thực Lục Chính Biên

Kỷ thứ 2, quyển 122.

Thánh Tổ Nhân Hoàng đế [Minh Mệnh] Thực Lục

Năm Giáp Ngọ [1834] Minh Mệnh thứ 15, tháng 3 mùa xuân… Sai Giám thành Ðội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng 20 thuỷ quân đáp thuyền đến xứ Hoàng Sa, Quảng Nghĩa vẽ bản đồ rồi về. Nhà vua hỏi về sản vật tại nơi này, Sĩ tâu xứ này bãi cát rộng lớn không có bến bờ, duy có người Thanh thường đi lại đánh cá bắt chim mà thôi ; nhân đem những đồ bắt được như chim chóc, cá, ba ba, ốc, sò dâng lên ; phần lớn là những vật lạ người ta ít khi được thấy. Vua triệu các Thị thần cho xem, cùng thưởng cho những người đi tiền bạc nén có sai biệt.


Ðại Nam Thực Lục Chính Biên

Kỷ thứ 2, quyển 154.

Thánh Tổ Nhân Hoàng đế [Minh Mệnh] Thực Lục

Năm Ất Mùi [1835] Minh Mệnh thứ 16, tháng 6 mùa hạ… Xây đền thờ thần tại đảo Hoàng Sa, Quảng Nghĩa. Tại đảo Hoàng Sa, hải phận Quảng Nghĩa có một gò cát trắng, cây cối mọc rậm rạp, giữa có giếng, phía tây nam có cổ miếu và bia khắc 4 chữ “ Vạn Lý Ba Bình ” (Gò cát trắng chu vi 1070 trượng (1) [4,7 mét x 1070 = 5029 mét], xưa có tên là núi Phật Tự. Phía đông, tây, nam bao bọc nghiêng nghiêng bởi đá san hô ; mặt nước phía bắc tiếp với đá san hô đột nhô lên một gò chu vi 340 trượng [4,7x 340 = 1598 m], cao 1 trượng 3 xích [ 4,7 m x 1,3 = 6,11 m], ngang với gò cát, gọi là đá Bàn Than). Năm trước vua định cho xây miếu, lập bia nơi này, nhưng vì gặp sóng gió nên chưa làm được, đến nay sai Cai đội Thuỷ quân Phạm Văn Nguyên đốc suất lính thợ giám thành cùng phu thuyền 2 tỉnh Quảng Nghĩa, Bình Ðịnh chở vật liệu, xây miếu (vị trí cách miếu đá cũ 7 trượng [4,7 m x 7= 32,7 m]), bên trái dựng bia, phía trước có bình phong chắn ngang ; xây suốt tuần, hoàn tất rồi trở về.

 


Ðại Nam Thực Lục Chính Biên

Kỷ thứ 2, quyển 165.

Thánh Tổ Nhân Hoàng đế [Minh Mệnh] Thực Lục

Năm Bính Thân [1836] Minh Mệnh thứ 17, ngày mồng một tháng giêng mùa xuân… Bộ Công tâu rằng vùng biển Hoàng Sa nước ta rất hiểm yếu, trước đây đã cho vẽ bản đồ, nhưng hình thế rộng rãi, chỉ vẽ được một xứ mà cũng chưa thật rõ ràng, nên hàng năm thường sai phái đi thăm dò khắp để thuộc hải trình.

Xin từ năm nay trở đi mỗi năm vào hạ tuần tháng giêng chọn sai lính thuỷ cùng giám thành đáp một chiếc thuyền ô đến thượng tuần tháng 2 đến Quảng Ngãi. Rồi do hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Ðịnh điều mướn dân cùng 4 chiếc thuyền hàng hải đến xứ Hoàng Sa. Ðến nơi bất luận đảo hoặc bãi cát nào đều đo chiều dài, rộng, cao, chu vi; cùng giáp biển 4 phía nông sâu ; có hay không đá hoặc bãi cát ngầm, hình thế hiểm hoặc dễ ra sao ; ghi rõ cùng vẽ bản đồ. Lại xét ngày khởi hành tại cửa biển nào, ra biển đi theo phương hướng nào đến nơi đó, cứ theo thuỷ trình kế toán ước lượng bao nhiêu dặm ; lại từ xứ đó nhìn thẳng vào bờ biển thì đối diện với tỉnh hạt nào, hướng tà [xiên] giáp với tỉnh hạt nào, ước lượng cách bờ bao nhiêu dặm, nhất nhất ghi rõ, mang về trình tiến.

Nhà vua chấp nhận, sai Thuỷ quân Suất đội Phạm Hữu Nhật mang binh thuyền đi, cho mang theo 10 chiếc cột gỗ đến nơi dựng lên làm tiêu chí,  cột dài 5 xích [5 x 0,47m = 2,35 mét], rộng 5 thốn [0,235 mét], dày 1 thốn [0,047 mét]) trên khắc các chữ “ Minh Mệnh thập thất niên, Bính Thân, Thuỷ quân Chánh Ðội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương độ, chí thử lưu chí ” [Năm Bính Thân [1836], Minh Mệnh thứ 17, Thuỷ quân Chánh Ðội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh đền Hoàng Sa đo đạc, lưu lời ghi tại đây)

 

 

Bổ sung vào các ghi chép chính thức của nhà nước này là các ghi chép của các nhà quan sát phương Tây về việc thực thi chủ quyền quốc gia. Giám mục người Pháp, Jean Louis Taberd viết về việc vua Gia Long cắm cờ Việt Nam tại Hoàng Sa năm 1816 như sau trong cuốn sách Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes, xuất bản năm 1833:

Nous n’entrerons pas dans l’énumération des principales iles dépendantes de la Cochinchine; nous ferons seulement observer que depuis de 34 ans l’archipel des Paracels nommé par les Annami-tes Cát Vàng ou Hoàng Sa (sable jaune) véritable labyrinthe de petits ilôts de rocs et de bancs de sable justement redoutés des navigateurs a été occupé pas les Cochinchinois.

“Nous ignorons s’ils y ont fondé un établissement, mais il est certain que l’empereur Gia Long a tenu à ajouter ce singulier fleuron à couronne, car il jugea à propos d’en aller prendre possession en personne, et ce fut en l’année 1816 qu’il y arbore solenellement le drapeau cochinchinois.”

"Chúng tôi sẽ không liệt kê các đảo chính của Cochinchine [Taberd dùng tên Cochinchine tức là Đàng Trong thay vì dùng quốc hiệu chính thức là Việt Nam hay Đại Nam]; chúng tôi sẽ đơn giản lưu ý rằng từ 34 năm nay quần đảo Hoàng Sa được người An Nam gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa, đó là một mê cung thực sự với các đảo đá nhỏ, của các bãi cát đúng là khiến những người đi biển sợ hãi đã được người Cochinchine chiếm đóng.

 Chúng ta không biết họ đã thiết lập cơ sở gì ở đó, nhưng chúng tôi chắc chắn rằng Hoàng đế Gia Long đã cài thêm một bông hoa đặc biệt trên vương miện của ông, bởi ông đánh giá đó là đúng thời điểm để chính ông thực hiện quyền sở hữu  quần đảo, và năm1816, ông đã cắm lá cờ Cochinchine lên đảo này"

Taberd cũng đã vẽ bản đồ với độ chuyên nghiệp cao; đó là Annam Đại Quốc Họa Đồ - Tabula Geographica Imperii Ananmitici (Map of Great Annam)  bao gồm quần đảo Hoàng Sa và được in trong cuốn Từ điển Việt Nam – Latin.[76]

Bản đồ 7. Annam Đại Quốc Họa Đồ - Tabula Geographica Imperii Ananmitici

Your browser may not support display of this image.

Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825), một thủy thủ hải quân và là nhà thám hiểm người Pháp còn viết sớm hơn, ít nhất là trước khi mất vào năm 1825 về sự kiện vua Gia Long chiếm hữu Hoàng Sa chỉ vài năm trước đó trong cuốn Memoire Sur La Cochinchine, nhưng được xuất bản 100 năm sau vào năm 1925 trên  Bulletin Des Amis du Vieux Hue, no. 2, 4, 6 như sau:

Topographie: Division physique.- La Cochinchine don’t le sou-verain porte aujourd’hui le titre d’Empereur, comprend la Cochinchi-ne proprement dite, le Tonquin…, quelques iles habitées peu éloignées de la côte et l’archipel de Paracels, composé d’ilôts, d’écueils et de ro-Chers inhabités. C’est seulement en 1816, que l’Empereur actuel a pris possession de de cet archipe.l

"Địa hình Cochinchine, nơi mà từ đó hoàng đế hiện tại cai trị vương quốc của ông, xứ Cochinchine (Đàng Trong) trước đây và Tonquin (Đàng Ngoài)... và một vài hòn đảo có người ở gần bờ và quần đảo Hoàng Sa gồm nhiều đảo và đá không người ở. Ngày 1816, hoàng đế hiện nay đã thực hiện việc chiếm hữu quần đảo này".

 

Bản đồ 8. Paracels (Hoàng Sa) với hai cụm Lưỡi Liềm (Crescent group)
 và cụm An Vĩnh (Amphitrite group).
Source: CIA Fact Book.

Hoàng Sa trong các văn bản hiện đại của Việt Nam phản ánh toàn bộ quần đảo Paracels bao gồm cụm đảo Lưỡi Liềm (Crescent group) trong đó có đảo Pattle (tên Việt là Hoàng Sa) và cụm đảo An Vĩnh (Amphitrite group) trong đó có đảo Woody (tên Việt là Phú Lâm).

Cụm đảo Paracels bao gồm 7 đảo nhỏ và một số dải san hô. 5 đảo nhỏ chính là Pattle (Hoàng Sa), Money (Quang Ảnh), Robert (Hữu Nhật), Quang Hòa (Duncan), Duy Mộng (Drummond) and Triton.

Đảo nhỏ Pattle hay tên tiếng Việt là đảo Hoàng Sa không phải là đảo lớn nhất nhưng về quân sự lại là đảo quan trọng nhất trong cụm đảo Crescent. Nó chỉ có diện tích là 0,3 km2 nhỏ hơn nhiều so với đảo Woody ở cụm Amphitrite, đảo có diện tích 2,5km2.

Đảo Pattle gần đất liền Việt Nam và rất quan trọng cho quốc phòng của Việt Nam vì vài nguyên nhân. Đảo Hoàng Sa đã được sử dụng như trung tâm hành chính của Pháp và hải quân miền Nam Việt Nam. Trạm khí tượng cũng được Pháp xây dựng vào năm 1938. Đảo này có Miếu Bà.[77],[78]  Ở đảo Woody (Phú Lâm, Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng) Trung Quốc cũng tìm thấy Miếu Bà. Nên Miếu Bà mà vua Minh Mạng ra lệnh xây năm 1835 không biết là xây ở đâu. Do đó thông tin như thế chưa thể giúp cho việc xác định vua chúa Việt Nam có ra lệnh thủy thủ tới nơi nào trong hai đảo quan trọng trên không.  

Tác giả bài viết này trong bản thảo trước đây đã cho rằng điểm đến thường xuyên quân nhà Nguyễn tới phải là đảo Pattle (Hoàng Sa) trong khu Crescent (Lưỡi Liềm) vì nó gần đường hàng hải mà tàu bè thường qua lại dọc phía tây biển ĐNA, tức là cạnh khu Lưỡi Liềm (Crescent), và do đó là nơi tàu dễ gặp nạn và là nơi vua chúa Việt Nam ra lệnh thủy thủ hàng năm ra đó thu lượm  những phẩm vật có giá trị còn lại từ các tàu đắm, điều đã được viết rất rõ trong Phủ biên tạp lục (xem Hộp 1). Các vật có giá trị bao gồm: "bạc như ngựa bạc và thanh kiếm, hoa, tiền xu..; bài đồng, các chất liệu chì, súng, ngà voi, vàng hộp, chăn và gốm và sứ. Họ cũng thu thập được rất nhiều kệ rùa biển, dưa biển (hải sâm), ốc với thiết kế trang trí". Đảo Tri Tôn cũng nằm trong cụm đảo Crescent được xác định là nơi người ta có thể tìm thấy nhiều Hải sâm và baba [79] và sự mô tả này hoàn toàn phù hợp với mô tả trong Đại Nam Thực lục.

Các ghi chép lịch sử còn lại của các chúa Nguyễn và vương triều nhà Nguyễn hoàn toàn không đề cập rõ về hai cụm đảo của quần đảo Hoàng Sa. Không nghi ngờ gì khi các vua Nguyễn đều có nhận thức về toàn bộ quần đảo Hoàng Sa nhưng nếu khu Lưỡi Liềm (Crescent) là nơi có nhiều tàu đắm và là nơi có thể thu lượn sản phẩm giá trị thì nó phải là nơi mà vua chúa Nguyễn cử thủy binh tới. Ở đây quả thật không có người Hoa và người Hoa sau này chỉ tập trung ở Đảo Woody (Phú Lâm). Tại sao thế, phải chăng Phú Lâm là nơi được người Nhật  chú ý tới vì có phốt phát để khai thác nên thuê người Hoa làm việc ở đó, hay là vì cụm đảo Crescent là nơi mà người Hoa ở đảo Hải Nam thừa nhận đó là nơi Việt Nam có chủ quyền?  Việc công nhận rõ ràng này đã được chứng minh qua việc trả các thủy thủ Việt Nam trong biệt độ bị cuốn trong bão đến đảo Hải Nam như đã phân tích trong phần trước.

Luật quốc tế cho phép Việt Nam lập luận rằng khi Việt Nam có chủ quyền đối với một phần, Việt Nam có thể tuyên bố chủ quyền với toàn bộ quần đảo. Ngược lại, các bản báo cáo về các chuyến đi ra Paracels dường như chấm dứt sau thời Minh Mạng và việc có mặt của người Hoa vào đảo Phú Lâm (Woody) khai thác trong một thời gian dài (ít nhất là từ 1909 đến 1933) mà không phản đối cũng là vấn đề sẽ được đặt ra nếu vấn đề được Tòa án Quốc tế tài phán. Tất nhiên Việt Nam có thể cho rằng nhà Nguyễn bận lo đối phó với chiến tranh xâm lược của Pháp nên không thể tiếp tục công việc ra đảo và sau đó Pháp không làm gì để bảo vệ chủ quyền Việt Nam cho mãi đến năm 1933 vì hành động của người Hoa là hành động của nhà nước cát cứ địa phương ở tỉnh Quảng Đông.

2. Yêu sách về quần đảo Spratlys (Trường Sa) và chứng cứ lịch sử

Việt Nam khẳng định rằng quần đảo Trường Sa là thuộc Việt Nam. Cũng như vấn đề Paracels, điều cần chứng minh là vua chúa Việt Nam đã thực hiện chủ quyền ở đó một thời gian liên tục mà không ai phản đối. Chứng cứ lịch sử về vấn đề này xem ra không tồn tại.  

Chính hai người nước ngoài sống ở Việt Nam thời Gia Long là Giám mục Taberd và nhà thám hiểm Jean Baptiste Chaigneau viết rất rõ về Hoàng Sa và hoạt động của vua Gia Long nhưng đã không nói gì về quần đảo Spratlys (Trường Sa). Ngay cả bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ do Giám mục Taberd vẽ cũng chỉ vẽ quần đảo Paracels (Hoàng Sa) mà không có quần đảo Trường Sa (Spratlys). Không thể có sự quên lãng đó đối với Taberd khi mà tấm bản đồ vẽ hoàn toàn chuyên nghiệp, dựa theo nguyên lý vẽ bản đồ tiên tiến của phương tây thời đó.

Còn về phía Việt Nam, gần như không có tài liệu lịch sử nào có thể coi là chứng cứ về chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Trường Sa. Có hai tài liệu mà sử gia Việt Nam dùng để chứng minh Trường Sa là của Việt Nam là một danh từ viết trong Phủ Biên Tạp Lục và Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ như bằng chứng. Phần sau sẽ bàn về từng điểm.

Bắc Hải có phải là Trường Sa không?

Điểm trong sách vở (cũng không phải là chính sử) mà một số sử gia Việt Nam dùng để cho rằng Trường Sa là của Việt Nam là đoạn viết trong Phủ Biên Tạp Lục thời chúa Nguyễn nói về Đội Bắc Hải (trích lại Hộp 1 ở trên):

 Nhà Nguyễn cũng xây dựng biệt đội Bắc Hải, với các nhân sự đa dạng, được tuyển từ làng Tứ Chính, huyện Bình Thuận, hoặc từ làng Cảnh Dương. Những tình nguyện viên được chấp nhận sẽ được miễn các loại thuế và các phí cầu cảng. Họ sử dụng các tàu thuyền đáng cá tư nhân cỡ nhỏ để

Chấp nhận các tình nguyện viên đã được miễn thuế-trong-loại, và các loại thuế trên cầu cảng-hạ cánh. Họ đã sử dụng tàu thuyền đánh cá tư nhân nhỏ để đi du lịch đến Bắc Hải, Côn Lôn [Poulo Condor, hoặc Côn Đảo ngày đảo ngoài Hà Tiên ngày nay] để bắt đồi mồi, cá heo, bào ngư, hải sâm. Biệt đội Bắc Hải được đặt dưới sự giám sát của biệt đội Hoàng Sa vì họ chỉ thu thập hải sản, và rất hiếm khi có được các nguyên liệu quý khác như vàng và bạc.

Ông Võ Long Tê cho rằng đội Bắc Hải là đội đi Trường Sa vì danh từ Bắc Hải chính là nhằm “nhấn mạnh về ý nghĩa hải đảo thần tiên của danh từ này" và để chỉ Trường Sa sau khi dùng “hai cuốn từ điển này qui chiếu vào sách Thập châu kí, đề cập đến Bắc-hải mà chúng ta mới giải thích được danh xưng Bắc hải đội mà nhiệm vụ là khai thác các hải đảo huyền viễn.” [80] Ông Võ Long Tê có thể đúng về văn chương nhưng không thể dùng điều suy luận trên làm chứng cứ lịch sử là hàng năm chúa Nguyễn đều sai người ra Trường Sa. Đại Nam Thực lục Chính Biên thì không nhắc lại gì đến đội Bắc Hải. Đại Nam Thực lục Chính Biên, đoạn ở trên, có ghi là “đi du lịch đến Bắc Hải”, mà đi du lịch thì không đồng nghĩa với thực hiện chiếm đóng, khẳng định chủ quyền.  

Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ có thể dùng làm chứng cứ? 

Cũng có người lý luận là danh từ “Hoàng Sa” là dùng gộp để chỉ cả Paracels và Trường Sa. 

Một số học giả Việt Nam bao gồm cả những người mà ấn phẩm của họ (như Từ Đặng Minh Thu) được sử dụng cho bài viết này đã sử dụng Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ (大南 統全 ) như là một bằng chứng. Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ [81] tất nhiên lúc đó chưa tiếp cận được Tạp chí Sử Địa số 27-28, xuất bản ở Sài Gòn năm 1974 để có được thông tin là nguồn gốc bản đồ không rõ ràng.

Thực sự Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ là một bản đồ Việt Nam khá chi tiết, bao gồm tên của hai quần đảo: Hoàng Sa (the Paracels, và Trường Sa (the Spratlys) được gọi là Vạn lý Trường Sa, vẽ ngay cạnh nhau. Giống như các bản đồ cổ khác của Việt Nam và Trung Quốc, người vẽ bản đồ không theo quy tắc của thuật vẽ bản đồ hiện đại. Bản đồ này do đó mang tính biểu trưng nhiều hơn là mô tả chính xác quy mô, nên không thể làm mất ý nghĩa của nó. Với số nhiều đảo vẽ thành hai cụm gần bờ biển miền Trung Việt Nam như thế nên Từ Đặng Minh Thu cho rằng chúng chính là Hoàng Sa và Trường Sa là hoàn toàn hợp lý.[82]

Tuy nhiên như đã nói nguồn gốc bản đồ này không rõ ràng. Có lúc bản đồ này được cho là do Quốc Sử Quán triều Nguyễn xuất bản theo lệnh vẽ bản đồ của vua Minh Mệnh năm 1836 được ghi trong Tập 2, quyển 165 của Đại Nam Thực Lục Chính Biên (coi Hộp 2). Chính sử gia Võ Long Tê người tin rằng vua quan nhà Nguyễn đã gửi người ra Trường Sa (vì danh từ Bắc Hải) cũng nghi ngờ. Ông Võ Long Tê viết: [83] 

Hiện nay chúng ta có một họa đồ mệnh danh là " Đại nam nhất thống toàn đồ ", trong đó ghi rõ hai quần đảo riêng với danh xưng Hoàng Sa và Vạn lý Trường sa. Thật ra đây là một bản sao do ông Châu Ngọc Thôi, nguyên Đổng Lý Văn Phòng Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa, hiện là phụ tá tại Phủ Phó Thủ Tướng đặc trách thanh tra các chương trình Phát triển Quốc Gia kiêm liên lạc với quốc hội, sưu tập từ lâu và có nhã ý cho chúng tôi khai dụng (xin xem bản đồ).

Ông P. A. Lapicque đã công bố bản đồ này trong tập " A propos des Iles Paracels " in năm 1929 và ghi chú rằng đó là bản đồ trích từ sách Hoàng Việt Địa Dư Chí in năm Minh Mệnh thứ 14 (tức năm 1834) .(1) Nhiều tác phẩm sử địa khác có lẽ cũng lặp lại nhận định của LaPicque, chẳng hạn như sách Việt Nam Văn Học Toàn Thư II; cổ tích của Hoàng Trọng Miên (1), hay một tác phẩm Anh ngữ mà chúng tôi chưa tìm ra nhan đề, có chú giải: " The Hoàng Việt Địa Dư-Geography of the Annamitte-Empire - shows that The Paracels and Spratley Islands have for a long been Vietnamese possession " (2).

Theo chúng tôi, " Đại Nam nhất thống toàn đồ " không thuộc " Hoàng Việt Địa dư chí " vốn in lần đầu tiên năm 1833 (chứ không phải năm 1834) vì lẽ giản dị, quốc hiệu Đại Nam được vua Minh Mệnh ban hành năm 1838. Sách " Minh mệnh chính yếu " (quyển I, tờ 44a-44b) có trích đăng đạo dụ ban hành quốc hiệu Đại nam vào năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) (3). Nghiên cứu nội dung bản đồ này, chúng ta nhận thấy có những địa danh chứng tỏ bản đồ này thiết lập từ năm cải quốc hiệu đến năm chúng ta mất Nam kỳ lục tỉnh, tức là trong khoảng thời gian mà địa giới phía tây nước ta đặt ở phía tây Cửu long với lý do đất Ai-lao và Cao-miên còn thống thuộc triều đình Huế. Bản đồ này có lẽ là công trình cá nhân hay tập thể của sử thần Quốc sử quán là cơ quan chuyên trách về việc soạn thảo các tài liệu sử địa chính thức của triều Nguyễn trước thời Pháp thuộc.

Với bản đồ này chúng ta cũng nhận ra tổng danh Trường sa trong " Toàn tập Thiên nam tứ chi lộ đồ thư " đã trở nên biệt danh Vạn lý Trường sa chỉ thị quần đảo Trường-sa ngày nay, còn đặc danh Hoàng-sa, hậu thân của đặc danh Bãi Cát Vàng chỉ thị cách chuyên biệt quần đảo Hoàng-sa ngày nay.  

 

Bản đồ 9. Đại Nam Nhất Thống Tòa Đồ大南 統全

Dù biết rằng bản đồ này được vẽ sau năm 1838 sau khi vua Minh Mạng ra lệnh vẽ nhưng vì nguồn gốc không rõ ràng, cho nên không thể dùng nó làm chứng cứ lịch sử. Nó có thể phụ giúp làm mạnh các chứng cứ khác nhưng như hiện nay với gần như không có chứng cứ chính thức nào có khả năng khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Trường Sa.

Lý do kinh tế và các lợi ích khác để vua chúa nhà Nguyễn kiểm soát Trường Sa?

Có thể nói không có lý do kinh tế nào rõ rệt để vua chúa nhà Nguyễn phải gửi lính ra Trường Sa. Quần đảo này cách xa đường vận chuyển nối liền Trung Quốc, Nhật Bản tới Việt Nam, các quốc gia ĐNA khác, và Ấn Độ Dương. Do đó, có rất ít phẩm vật có giá trị từ các tàu đắm để thu lượm. Tìm kiếm các phẩm vật có giá trị ở Trường Sa cũng không phải là mục đích thường xuyên của biệt đội hải quân do nhà Nguyễn cử đi, cuốn Phủ Biên Tạp lục viết về biệt đội Bắc Hải được cử được đến Bắc Hải có mục đích chính của biệt đội nhà Nguyễn là để bắt đồi mồi, cá heo, bào ngư, hải sâm như sau:   

Họ đã sử dụng tàu thuyền đánh cá tư nhân nhỏ để đi du lịch đến Bắc Hải, Côn Lôn [Poulo Condor, hoặc Côn Đảo ngày đảo ngoài Hà Tiên ngày nay] để bắt đồi mồi, cá heo, bào ngư, hải sâm. Biệt đội Bắc Hải được đặt dưới sự giám sát của biệt đội Hoàng Sa vì họ chỉ thu thập hải sản, và rất hiếm khi có được các nguyên liệu quý khác như vàng và bạc.

Trong khi miền Nam Việt Nam không nổi tiếng với bào ngư thì vùng này lại rất nổi tiếng với đồi mồi có giá trị cao và có thể được sử dụng để làm trang sức hoặc các vật trang trí khác. Nhưng những con vật này có thể tìm thấy ở Hà Tiên trong vùng tận cùng của Nam Việt Nam, và ở các đảo gần bờ như Côn Lôn. Do đó, đâu cần phải đi ta tới tận quần đảo Trường Sa. Nơi đó xa hải trình thường xuyên của tàu bè nên không có tàu đắm. Khoảng cách nơi biệt đội đóng xa quần đảo Trường Sa gần 350 hải lý (trên 600 km), gần gấp đôi đường đi tới Hoàng Sa. Vậy lý do gì để nhà Nguyễn phải gửi người ra đó thường xuyên?

Ngoài ra, nghề đánh bắt cá trên biển trong thế kỉ 18-19 cũng không có khả năng bảo quản lạnh, việc bảo quản cá thủ công với lượng lớn cũng cần nhiều lao động. Khai thác phân chim chỉ trở thành một ngành công nghiệp sau cách mạng công nghiệp. Thậm chí trong thời nhà Nguyễn, như đã được ghi trong Phủ Biên Tạp Lục, biệt đội Bắc Hải cũng chỉ là một phân nhóm của biệt đội Hoàng Sa. Khả năng cao là nhà Nguyễn không quá chú ý đến quần đảo Trường Sa bởi vì họ không nhìn thấy giá trị kinh tế. Cho đến khi Pháp sát nhập quần đảo Trường Sa vào lãnh thổ vào năm 1933 (xem trong Biên niên biểu), nó vẫn là terra nullius – đất vô chủ.  

Your browser may not support display of this image.3. Kết luận về yêu sách của Việt Nam ở Paracels và Spratlys 

Liên quan đến quần đảo Hoàng Sa, các dữ kiện được trình bày ở trên cho thấy Việt Nam đã có tuyên bố rõ ràng và thực thi quyền của mình ở Paracels ít nhất suốt 70 năm từ trước 1770 cho tới khi vua Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền năm 1816, và tiếp tục cho đến thời Minh Mạng được ghi rõ ràng trong chính sử Việt Nam cho đến 1837. Sau đó không thấy ghi vì có thể là việc kiểm soát Paracels đã trở thành chuyện thường nhật không cần ghi.  Bà Chemillier Gendreau có nhắc đến các hoạt động của vua chúa tiếp sau Minh Mạng, cho rằng năm 1847 thời Thiệu Trị một vị quan làm báo cáo cho vua là cần hoãn các chuyến ra đảo vì thiếu tiền và năm 1867, thời Tự Đức, một số thủy thủ mất mạng trong chuyến đi ra đảo, và được vua phong anh hùng. Bà không đưa nguồn tài liệu về những chuyện này.[84] Điều này các sử gia Việt Nam cần làm rõ.

Về Trường Sa, không có chứng cứ từ chính sử, và ngay cả ngoài chính sử cũng không có chứng cứ lịch sử rõ ràng để chứng tỏ rằng nhà Nguyễn đã hành xử chủ quyền ở đó. Trung Quốc, cũng đã được chứng minh, không có chứng cứ từ chính sử cho thấy các vương triều Trung Quốc đã đến đó khẳng định chủ quyền. Phải chăng đó là lý do Pháp coi các hải đảo này là vô chủ cho đến khi Pháp tuyên bố chủ quyền?

Dù rằng tuyên bố chủ quyền, Pháp đã không thật sự làm chủ được một quần đảo có diện tích cộng lại rất nhỏ (chỉ có 5km2) nhưng lại trải rộng trong một vùng biển rộng lớn trên 600.000km2.  Tuyên bố chủ quyền của Pháp đã bị Nhật phản đối và Anh không hoàn toàn chấp nhận nhưng không phản đối ra mặt vì yêu cầu chống bành trướng của đế quốc Nhật.[85] Tuyên bố của Pháp cũng chỉ nêu ra 6 hòn đảo trong rất nhiều đảo đá ở khu vực Trường Sa (coi phụ lục mục 1933 để tìm ghi chú về nguồn thông tin). Liệu một tuyên bố về một vùng đất phức tạp như thế cho phép Pháp làm chủ một vùng mà họ chưa biết rõ?

Vì nhiều đảo, đá ở Trường Sa không ai cai quản và có đảo lại nằm gần Philippines, ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, “terra nullius” – đất vô chủ đã là cơ sở luật pháp cho công dân Philippines tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa năm 1956 và Philippines chính thức tuyên bố chủ quyền vào năm 1971 (xem Biên niên biểu). Yêu sách chủ quyền của Philippines là có thể hiểu được nếu tuyên bố của Pháp bị coi là hành động chiếm đoạt của chủ nghĩa thực dân, trong thời gian nước Phi chưa có độc lập.

4. Ai đã ở mặt ở Paracels, ở đâu và ý nghĩa của nó?

Thời gian có mặt của Việt Nam ở Paracels như thế kéo dài liên tục ít nhất là 74 năm từ 1774 tới ít nhất là (từ lúc Lê Quí Đôn nói về chuyến đi Hoàng Sa cho tới năm sau khi Minh Mạng ra lệnh vẽ bản đồ), thời gian này được ghi nhận trong chính sử.[86] Ý chí và hành động nhằm khẳng định chủ quyền được vua Gia Long và vua Minh Mạng đã thể hiện trong văn bản. Các chuyến ra đảo dù chỉ kéo dài nhiều nhất là sáu tháng nhưng liên tục năm này qua năm khác. Và như thế là đủ vì theo luật gia Chemillier Gendreau luật có thể giải thích linh động theo hoàn cảnh đặc thù; bà trích quyết định của Tóa án Quốc tế để giải thích vấn đề này trong vụ kiện liên quan đến Western Sahara:[87]

Trong mọi thời đại cần làm cho yêu cầu về hiệu lực phù hợp với hoàn cảnh của nơi chốn và địa lý của vùng lãnh thổ (bất kể mức độ đòi hỏi của pháp lý).  

Một yêu sách chủ quyền dựa trên sự biểu lộ liên tục quyền lực liên quan đến hai yếu tố, mỗi yếu tố phải hiện hữu: ý định và ý chí hành động như là người có chủ quyền, và một vài hành xử hay biểu lộ chủ quyền đó…  

… in all ages it has been necessary to adapt the requirement of effectiveness (regardless of the legal degree of it required) to the circumstances of the place and the topography of the territory.

... A claim to sovereignty based upon continued display of authority involves two elements, each of which must be shown to exist: the intention and will to act as sovereign, and some actual exercise or display of such authority. (...)

Như vậy theo tiền lệ của Tòa án Quốc tế xử về chủ quyền, việc không có dân thường xuyên ở đó là chấp nhận được vì hoàn cảnh bão tố, chuyên chở khó khăn, khả năng lưu trữ lương thực lâu không có nên không cho phép dân sống thường xuyên ở đó và sau này lý do vua nhà Nguyễn không còn gửi thủy quân ra đó vì chiến tranh với Pháp và sau đó vì Pháp đã không làm tròn trách nhiệm bảo hộ, mà  theo Hiệp ước Pháp Việt, đáng lẽ Pháp phải thực hiện sớm hơn để phản đối Trung quốc (dù chỉ là chính quyền tỉnh Quảng Đông) gửi tàu ra đó năm 1902, và 1909  vì bảo hộ Việt Nam là trách nhiệm của Pháp.  Thời gian chính quyền Pháp ở Paris không hành động thì dư luận ở Việt Nam đã lớn tiếng đòi hỏi điều này. Phần dưới sẽ phân tích rõ hơn các vấn đề nêu ở đây.

Cái nhìn của phương tây

Theo nghiên cứu của Stein Tønnesson,[88]  trong thời gian cường quốc châu Âu trỗi dậy, cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thu hút sự quan tâm của cả Anh và Pháp vì chúng rất nhỏ, không có nhiều tài nguyên mà họ có thể khai thác kinh tế vào thời điểm đó. Thêm vào đó, các quần đảo này chứa đựng vô số các mối nguy hiểm rình rập các tàu. Các quần đảo này được phân loại trên biểu đồ đi biển như là “vùng đất nguy hiểm” hoặc “cụm đảo nguy hiểm” cần tránh.

Năm 1877, Anh đã cấp phép cho một nhóm thương nhân cắm cờ của Anh lên quần đảo Trường Sa với mục đích thương mại mà không thu hút chú ý hay phản đối của bất kỳ quốc gia nào.

Chỉ đến khi hải quân Nhật Bản tài trợ các hoạt động thương mại để thâm nhập và đe dọa sự thống trị các vùng biển của Châu Âu thì Anh và Pháp mới bắt đầu quan tâm. Và đây là lý do Pháp tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1933 là để đáp lại mối đe dọa từ Nhật Bản.  Chỉ duy nhất Nhật Bản phản đối yêu sách của Pháp. Nếu trước đây năm 1909 Pháp không phản đối thì năm 1933 này Trung Quốc không phản đối. Không phải ai ở Luân Đôn cũng hài lòng với tuyên bố của người Pháp nhưng tất cả các cơ quan chính phủ quan trọng của Anh như Văn phòng Thuộc địa, Bộ Tài chính và Thống đốc Hongkong đều cùng phe với Bộ Ngoại giao Pháp ủng hộ tuyên bố yêu sách Pháp dù không chính thức công bố. Thậm chí, Anh còn tiến xa hơn khi họ yêu cầu Pháp cho Anh thuê Itu Aba (đảo Ba Bình) đảo lớn nhất ở quần đảo Trường Sa, và ép Pháp thực hiện tuyên bố chủ quyền của mình và chống lại người Nhật.[89]

Lính thủy nhà Nguyễn hoạt động ở đâu trên quần đảo Paracels?

Câu hỏi được đặt ra là khi chúa Nguyễn và sau này vua Nguyễn tới Paracels, đâu là nơi nhà Nguyễn đặt chân và để ý tới? Có thể nghi ngờ rằng đó là đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) trong khu Crescent (Lưỡi Liềm) vì nó gần đường hàng hải, lại gần Việt Nam nên có thể là nơi có nhiều tàu đắm. Nhưng nếu như đã tới đảo Woody (Phú Lâm) trong khu Amphitrite (An Vĩnh) thường xuyên thì đương nhiên là tới Pattle. Phân tích địa hình đảo Woody và so với những gì đã ghi trong Đại Nam Thực Lục thì có thể Woody (Phú Lâm) là đảo chính mà lính nhà Nguyễn tới hàng năm.


Bản đồ 10. đảo Woody (Phú Lâm) và đảo Rocky chụp từ vệ tinh

 

Đại Nam Thực lục Chính biên (ĐNTLCB), Kỷ thứ 2, quyển 154 (coi Hộp 2) đã viết:

Tại đảo Hoàng Sa, hải phận Quảng Nghĩa có một gò cát trắng, cây cối mọc rậm rạp, giữa có giếng, phía tây nam có cổ miếu và bia khắc 4 chữ “ Vạn Lý Ba Bình ” (Gò cát trắng chu vi 1070 trượng (1) [4,7 mét x 1070 = 5029 mét], xưa có tên là núi Phật Tự. Phía đông, tây, nam bao bọc nghiêng nghiêng bởi đá san hô ; mặt nước phía bắc tiếp với đá san hô đột nhô lên một gò chu vi 340 trượng [x 340 = 1598 m], cao 1 trượng 3 xích [ 0,7 m x 13 = 9,1 m], ngang với gò cát, gọi là đá Bàn Than).

Như vậy rất có khả năng đây là đảo Woody (Phú Lâm) mà ở bên phía đông bắc đảo (nằm trên phi đạo Trung Quốc mới xây) là Đá Bàn Than ghi trong Thực Lục và đó là đảo Rocky, với chu vi hai đảo cũng tương tự như ghi trong Thực Lục.[90] (Chu vi của hai đảo tính cho hình vệ tinh được ghi ở phía phải, độc giả có thể làm hình ra để đọc.)

Tất nhiên suy luận trên đây dù dựa trên chứng cứ lịch sử không phải là chứng cứ lịch sử rõ ràng và do đó vấn đề cần được tìm hiểu thêm. 

Cuộc vận động chính phủ Pháp bảo vệ chủ quyền Việt Nam ở Paracels?

Từ năm 1 tháng 9 năm 1858, Pháp bắt đầu thực hiện hành động xâm lược Việt Nam bằng cách tấn công Đà Nẵng và đến ngày 17 tháng 10 năm 1887 Pháp chính thức thiết lập Liên Bang Đông Dương sau khi hoàn toàn làm chủ Việt Nam. Trung kỳ Việt Nam vẫn có vua nhà Nguyễn ngự trị làm vì nhưng có thống sứ, thực chất là người quyết định mọi chuyện. Như vậy, thời gian từ năm 1858 trở đi vua nhà Nguyễn hoặc phải lo đối phó với xâm lược Pháp, hoặc sau đó thì mọi chuyện nằm trong tay Pháp quyết định. Việc cử thủy binh hàng năm ra Paracels không còn. Chưa tìm thấy tài liệu về hoạt động chính thống của nhà Nguyễn Việt Nam ở Paracels trong giai đoạn này.

Điều này cũng phản ánh trong thư, ngày 22 tháng giêng năm 1929, của thống sứ Trung kỳ ở Huế báo cáo Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội là Paracels thuộc An Nam (Việt Nam). Thư kể về việc Giám mục Taberd đã viết sách nói về sự kiện vua Gia Long ra Hoàng Sa năm 1816 cắm cờ khẳng định chủ quyền. Tuy nhiên thư cho rằng từ sau khi vua Minh Mạng cử người ra xây miếu và đài tưởng niệm năm 1838 thì gần như An Nam không còn liên liên hệ với đảo Paracels;[91] dân đánh cá không còn biết gì về nó và cũng chẳng còn ra đó nữa. Tuy nhiên thư có đề cập tới việc Thượng Thư Thân Trọng Huề trước khi mất năm 1925 có thư để lại xác định là các đảo này vẫn thuộc Annam. Thư cho rằng đáng lẽ khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền năm 1909 thì Pháp phải phản đối, xác định chủ quyền của Việt Nam, vì tầm chiến lược của đảo với an ninh của Bắc kỳ và Trung kỳ.[92] Lá thư này thực chất là nằm trong cuộc vận động của người Pháp ở Việt Nam áp lực chính phủ Pháp phải có nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam vì là nước bảo hộ.

Hoạt động của người Hoa và Nhật ở đả Woody (Phú Lâm)

Tám năm sau khi Pháp lập Liên bang Đông Dương, năm 1895 nhà Thanh thua trận phải nhượng Đài Loan cho Nhật.[93]  Năm 1902 chính quyền Quảng Đông lo ngại Nhật chiếm đảo nên đã ra lệnh cho  Đề đốc Lý Chuẩn (Lichun hay lizhun) đem tàu ra thám thính. Năm 1909 lại gửi Lý Chuẩn ra đó thám thính và cắm cờ tuyên bố chủ quyền.  Theo Phạm Hoàng Quân, việc Lý Chuẩn tuần tra  Hoàng sa và chép lại một văn bản có tên Lý Chuẩn tuần hải ký  (năm Tuyên Thống nguyên niên / 1909), văn bản này chép 16 tên đảo, bị sai và bị bỏ đi 10 tên và vị trí mô tả cũng sai. Tuy học giả Trung Quốc nói được lưu trữ ở Quảng Đông Trung Sơn đồ thư quán, nhưng không thấy có luận văn hoặc sách nào minh họa bản chụp.  Nội dung Lý Chuẩn tuần hải ký được đăng trên Thiên Tân Đại công báo lần đầu ngày 10 - 8 -1933, Quốc Văn chu báo đăng lại vào ngày 21 tháng 8 năm 1933.[94]  Công bố này có thể chỉ là phản ứng sau khi Pháp chính thức khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Paracels và Spratlys (Trường Sa) ngày 6 tháng 7 năm 1933.  Lý Chuẩn có thể chỉ đi tàu qua loa ở khu vực do đó không hiểu rõ về quần đảo và có sai lầm trong hải ký. Hành động của chính quyền tỉnh Quảng Đông cũng chỉ là hành động tượng trưng để tuyên bố chủ quyền chứ thực sự không có hành động thực hiện quyền kiểm soát ở đảo. Vì là chính quyền tỉnh cát cứ nên Pháp có thể bỏ qua không phản đối.

Chính vì hành động sai Lý Chuẩn ra đảo chỉ mang tính tượng trưng, việc  chính quyền tỉnh Quảng Đông tuyên bố chủ quyền đảo Paracles năm 1909 cũng chỉ mang tính tượng trưng chứ rõ ràng Trung Quốc cũng không có hành động cụ thể chiếm hữu hữu hiệu Paracels. Đây là lý do mà sau này người Nhật đội danh người Hoa đã ra đảo Woody khai thác phốt phát (Guano) mà Trung Quốc không biết.

Lập luận của Trung Quốc dùng để tuyên bố chủ quyền của họ không dựa trên chứng cứ lịch sử và sai lầm về mặt hiểu biết pháp lý. Lập luận gồm 3 điểm viết trong thư ngày 29 tháng 9 năm 1932 của Sứ quán Pháp gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp.[95] Điểm 1 là dựa vào Hiệp ước Pháp Thanh ký ở Bắc Kinh ngày 26 tháng giêng năm 1887, theo đó, các đảo phía đông đường kinh tuyến 105°43’ thuộc Trung Quốc do đó Trung Quốc cho là Paracels nằm ở phía đông nên thuộc Trung Quốc. Cần nhớ rằng thư này chỉ nói về Hoàng Sa chứ hoàn toàn không nói gì về Trường Sa, tức là lúc đó Trung Quốc chưa có ý định coi Trường Sa thuộc họ. Điểm 2 cho là 100 năm trước đó Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc nên đảo cũng là thuộc Trung Quốc. Điều 2 không cần phải trả lời. Nhưng điều 1 thì tác giả Từ Đặng Minh Thu[96] đã phân tích là đây là Hiệp ước Pháp Thanh giải quyết vấn đề biên giới giữaTrung Hoa và Bắc Bộ như tên của nó là  “Convention relative à la delimitation de la frontière entre la Chine et le Tonkin.” Không thể căn cứ vào đường kinh tuyến để giải quyết vấn đề của Trung bộ. Điểm 3 là có người Trung Quốc ở đảo Woody (Phú Lâm) trong quần đảo Paracels.

Vì lập luận trên không đứng vững nên Trung Quốc đã phải tạo ra các lập luận hoàn toàn khác với lập luận ban đầu.

Đúng là đã có cá nhân người Hoa và cả những người khác trong đó có người Việt khai thác ở đảo Woody (Phú Lâm). Và cũng đúng là có tình trạng lơ là với quần đảo Paracels của chính phủ nhà Nguyễn và chính phủ Pháp để dân nước ngoài tự do vào khai thác như chỗ không có chính phủ. 

Theo M.S. Samuels, [97] tài liệu của Công ty Kỹ nghệ Quần đảo Paracels (Paracel Achipelago Industries Company Unlimited) của Hồ Duy Niên (Ho Jui-nien) cho thấy công ty này thực chất là công ty Nhật Southern Prosperity Industries ở Osaka, có chi nhánh ở Đài Loan đã đầu tư thông qua Hồ Duy Niên nhằm khai thác phốt phát Guano ít nhất là từ năm 1919. Hồ Duy Niên nộp đơn cho chính phủ Quảng Đông (lúc đó chưa có chính phủ thống nhất ở Trung Quốc) tháng 4 năm 1921 xin khai thác và đánh cá ở Paracels. Ba tháng sau thì nhận được giấy phép. Hồ bị những người khác ở đảo Hải Nam không được giấy phép kiện từ năm 1921, kể cả việc công ty của Hồ là do người Nhật làm chủ. Hồ bị rút giấy phép nhưng công ty Hồ vẫn tiếp tục khai thác phốt phát ở đảo Woody (Phú Lâm). Năm 1923 Hồ lại nộp đơn xin giấy phép, sau khi điều tra Hồ được cấp phép trở lại.  Nhưng các vụ kiện tiếp tục, Hồ bị rút giấy phép 3 năm sau đó.

Năm 1928 tỉnh Quảng Đông lập một ủy ban điều tra gủi ra đảo. Báo cáo cho thấy Hồ đã khai thác đến 1/3 Guano ở đảo Woody (Phú Lâm) và hoàn toàn không hoạt động ở khu Lưỡi Liềm (Crescent). Trên đảo Woody (Phú Lâm) có khu văn phòng chính, xưởng, mỏ, dụng cụ, và khoảng 80 công nhân trên đảo, cũng kiếm thấy cả hồ sơ kế toán hoạt động. Ngoài văn phòng là khu nhà ở, có phòng ăn và nhà bếp, có nơi bán hàng, có nơi chứa ngũ cốc, trại nuôi gà lợn, trạm bơm nước, máy hơi nước, xưởng đúc, xưởng làm in mộc bằng thiếc, một số mỏ lộ thiên, xưởng chế biến phốt phát. Lại thêm đường sắt hẹp nhưng dài 1,1 km nối với cầu tàu bằng thép dài 1250 bước (381 mét)  vượt qua khu đá ngầm để đưa hàng lên tàu. 

Ngày 25 tháng 7 năm 1925 theo hồ sơ công ty của Hồ Duy Niên tàu chiến Pháp tới, để lại đảo 5 người (trong đó có hai người Hoa) sau hai ngày trở lại đón những người để lại rồi tàu bỏ đi. 

Tài liệu mà Samuels ghi lại cho thấy chỉ có đảo Woody và đảo Rocky đã được công ty dưới danh nghĩa người Hoa khai thác.  

Sự có mặt của người Nhật/Hoa trên đảo Woody cũng được xác định đến trên báo Economie de L'Indochine  xuất bản ở Hà Nội vào ngày 19 tháng 5 năm 1929.[98]  Bài báo này nói về Đảo Phú Lâm (có ảnh chụp tháng 7 năm 1926) có cầu tàu làm bằng thép dài 300 m, do Nhật xây dựng nhằm chuyển phốt phát xuống tàu. Bài báo cũng nói Nhật có mặt ở đảo Robert thuộc khu Crescent khai thác phốt phát, có đê chắn sóng do Nhật xây dựng bằng các khối phosphate vôi.

Thái độ của chính phủ Pháp về chủ quyền trên Paracels và Spratlys  

Trong thời gian chính quyền cát cứ Trung Quốc cho phép hoạt động ở đảo Woody và công ty Nhật dưới hình thức giả dạng công ty Trung Quốc đã khai thác phốt phát, chính quyền Pháp ở Paris không động tĩnh, mặc dù như thư năm 1929 của Thống sứ Trung kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương đã nói ở trên, đã có một phong trào đòi chính phủ Pháp thực hành hiệp ước bảo hộ Việt Nam.   Kết quả là chính Toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố chủ quyền ở Paracels và Spratlys, vào 8 tháng 3 năm 1925. Tuy nhiên, mãi đến 8 năm sau, vào năm 1933chính phủ Pháp mới chính thức làm điều này.  

Ở Đông Dương, trước đó, các quan chức và dư luận báo chí đã lên tiếng mạnh mẽ đòi hỏi chính phủ Pháp thực hiện chủ quyền mà vua Gia Long đã tuyên bố từ năm 1816; sự kiện mà báo chí Pháp ở Đông Dương biết rõ. Bài báo trên Economie de L'Indochine  được viết với là dụng ý đó. Tờ báo l’Eveil Economique de l’Indochine năm 1932 có bài Aux l’iles Paracels[99] lập luận rằng có nhiều lợi ích chiếm đóng Hoàng Sa thuộc quyền sở hữu của người Annam mà Toàn quyền chưa làm. Tác giả cho rằng xây hải đăng, phao nổi để hướng dẫn tàu thì có thể khiến nhiều tàu dùng Đông Dương hơn là Borneo, hay là việc xây đài khí tượng cũng rất hữu ích theo dõi bão. Và còn lợi ích khác là phosphate.   

Và ngay từ đầu những năm 1920, dư luận đòi hỏi thực hiện chủ quyền của Pháp trên Paracels cũng đã nổi lên rõ chứ không phải đợi đến những năm 1929-1930.  Điển hình và quan trọng nhất là ghi chú hay tờ trình mật (une note confidentielle)  L’histore moderne des l’iles Paracels (lịch sử hiện đại các đảo Paracels), viết năm 1921 nhưng mãi đến năm 1932 mới được công bố.[100]  Tờ trình mật này do ông Lacombe (Alexix Elijah), Trưởng hành chính Phòng 1 của Phủ Toàn quyền ký ngày 6 tháng 5 năm 1921. Tờ trình này điểm qua lịch sử, nhắc lại chuyện hai tàu Bellona của Đức và Imagi-Marai của Nhật bị đắm năm 1895 và 1896 trong khi chở đồng đi Anh và bị ngư dân Trung Quốc hôi của bán ở Hải Nam, nhưng khi Lãnh sự Anh phản đối thì quan chức Hải Nam cho rằng Paracels không thuộc Trung Quốc mà cũng chẳng thuộc An Nam. Từ vụ việc này viên chức Pháp ở Quảng Đông và tất nhiên ở Hà Nội và Sài Gòn cho rằng Bộ Thuộc địa và Bộ Ngoại giao Pháp phải có hành động thực hiện chủ quyền, đặc biệt là vào năm 1909 khi chính quyền Quảng Đông gửi đoàn chính thức ra đảo cắm cờ. Tờ trình viết về hàng loạt các hoạt động cần có sự xác định chủ quyền của chính phủ chính quốc.    

Vì đòi hỏi ở Việt Nam như thế nên năm 8 tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố chủ quyền của Pháp trên đảo Paracels and Spratlys[101] và gửi một đoàn nghiên cứu khoa học do Tiến sĩ A. Krempf,  Giám đốc Hải dương học đi tàu đánh cá de Lanessan ra đảo tìm hiểu.  Đến 23 tháng 9 năm 1930 Toàn quyền Đông Dương gửi tàu  Malicieuse ra đảo Sprateys cắm cờ và gửi công bố cho đồng minh biết chuyện này.[102] Nhưng ta cần biết là đây là hành động của chính quyền địa phương chứ chính quyền Pháp ở chính quốc mãi đến 1933 mới hành động chính thức mang tính quốc gia.  

Có lẽ de Lanessan gửi đi năm 1925 là tàu mà tài liệu công ty của Hồ Duy Niên có ghi lại nhưng lại nhầm là tàu chiến (coi Samuels). Ngoài ra Pháp còn gửi thêm tàu ra đó vào năm 1931, cũng chỉ để tìm hiểu.  Theo thông tin Trường Viễn đông Bác cổ trên Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient (BEFEO)[103] trang 608, vào ngày 3 tháng 7 năm 1931 có chuyến khảo sát quần đảo Hoàng Sa bằng tàu De Lanessan của Viện Hải dương học, có sự tham dự của ông M.J.Y. Claeys với mục đích tìm biết xem có còn nhận ra các dấu vết của sự chiếm đóng xưa kia của người An Nam, như chứng cứ những công trình xây dựng thờ cúng hay gì.  (Nguyên văn tiếng Pháp: Le but de ce voyage était de reconnaitre  si les traces d’occupation annamite ancience, don’t auraient témoigné des construction cultuelles ou autres, étaient encore reconnaissables). tàu De Lanessan đã đến các đảo Money, Roberts, Lincoln, Woody (Boisées, Phú Lâm), Rocky (Rocheuse) và Tree (l’Arbre). Nói về đảo Phú Lâm, tờ tin cho biết người Việt ở đó không đáng kể so với người Hoa làm thuê và cũng cho biết phốt phát đã được khai thác từ lâu. Những khu vực khai thác của người Nhật còn sơ sài, vị trí đặt ở chỗ mà trước đó một tổ chức người Hoa và người Anh đã khai thác.  Tờ tin này cũng nói đến (không rõ ở đảo nào, nhưng có lẽ là đảo Phú Lâm) những dấu vết xây dựng còn nhận ra giống như những cái miếu bằng đá, lợp tôn uốn sóng do người Hoa làm nghề bắt rùa dựng lên, trong chứa các câu viết không đáng để ý; họ dựng mỗi năm vài cái. Nguy hiểm sát bờ, mưa và gió ở Paracels, ở trong tâm bão hay trên đường bão đi qua, đã khiến người An Nam không bao giờ có xây gì đàng hoàng. Ở đảo Phú Lâm không có gì đáng kể ngoài vài tượng Phật bằng gỗ tầm thường. Như vậy là người An Nam đã có mặt ở Phú Lâm nhưng không đáng kể, như tin của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Điều này cũng phù hợp với miếu  Hoàng Sa Tự mà báo Trung Quốc nói tới sau này vì danh từ Hoàng Sa chính là danh từ người Việt dùng.[104]   

Theo Samuels[105], những năm 1920-1930 Paracels có hai khu hoạt động: khu người Hoa ở Amphitrite (An Vĩnh) và khu người Pháp ở Crescent (Lưỡi Liềm) và Pháp xây dựng dần dần hoạt động ở Paracels từ năm 1931 trở đi và chủ yếu là ở đảo Pattle (Hoàng Sa) khu Crescent (Lưỡi Liềm). Nhưng bản đồ Réseau météorologique et climatologique de l’Indochine (Hệ thống các trạm khí tượng và phong vũ biểu ở Đông Dương) hiện được ông Nguyễn Đình Đầu ở Việt Nam sưu tầm cho thấy năm 1927, Pháp đã xây trạm khí tượng ở Pattle (Hoàng Sa) và trạm phong vũ biểu ở  Itu Aba (Ba Bình) trong quần đảo Trường Sa.[106]  

Dù Pháp chia vùng đảo thành hai khu hành chính: khu Amphitrite (An Vĩnh) và khu Crescent (Lưỡi Liềm),  người Hoa vẫn hoạt động ở khu Amphitrite(An Vĩnh). Những kết luận này cũng phù hợp với chính sách của chính quyền Pháp ở Paris là không có chính sách. Thời gian này thì như năm 1921 thì Pháp muốn thảo luận với Trung Quốc, nhưng Đại biện Pháp (Chargé d’affaires) ở Trung Quốc trả lời Bộ trưởng Ngoại giao Pháp (thư ngày 25 tháng 10 năm 1921) cho rằng Trung Quốc không có chính phủ nên không thể thương lượng được.[107]    

Tại sao Toàn quyền Đông Dương, thay vì chính phủ Pháp,  công bố chủ quyền năm 1925? Tuy nhiên khi Trung Quốc cấp hợp đồng khai thác phân chim Guano (phốt phát) thì tại sao chính quyền Pháp lại gửi công hàm vào ngày 4 tháng 10 năm 1931 cho Đại diện của Trung Quốc ở Paris phản đối. Pháp đề nghị giải quyết tranh chấp ở Tòa án quốc tế. [108] 

Mãi đến ngày 26 tháng 7 năm 1933, chính phủ Pháp mới tuyên bố chính thức và in trên công báo Pháp Journal Officiel (trang 7837) là Spratlys (Trường Sa) thuộc Pháp[109], và đến ngày 21 tháng 12 năm 1933 thì Toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh số No. 4762-CP đặt Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Nhật phản đối nhưng các nước khác kể cả Trung Quốc đều im lặng, mặc dù tình báo Anh có ghi là Bộ trưởng Trung Quốc được lệnh phản đối.[110]  

Như vậy, Pháp chỉ có ý định bàn thảo việc phân chia Paracels với Trung Quốc và hoàn toàn không có ý định đàm phán phân chia Spratlys vì lúc đó Trung Quốc không có yêu sách.  Về Paracels, Pháp đề nghị với Trung Quốc đem ra Tòa Án Quốc tế ba lần năm 1932, năm 1937 và năm 1947 nhưng đều bị từ chối. Tại sao chính phủ Pháp chần chừ trong việc thực hiện chiếm đóng quần đảo Paracels khi Pháp hoàn toàn có khả năng chiếm đóng hay là vì chưa thấy quân đội Trung Quốc ở Paracels nên chưa hành động, hay Pháp không muốn gây hấn thêm với Trung Quốc sau khi ký hiệp định Thiên Tân? Rõ ràng là Pháp không làm tròn trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ Việt Nam sau khi ký với vua Nguyễn hiệp định bảo hộ.    

Pháp làm gì ở Paracels sau khi tuyên bố chủ quyền năm 1933? 

Phần viết này cho thấy Pháp tập trung hoạt động ở đảo Pattle (Hoàng Sa) là chính, ở đó có xây trạm khí tượng và hải đăng. Có lẽ đến năm 1937-1938 Pháp mới cử người ra đảo Woody (Phú Lâm) và chỉ xây trạm khí tượng.     

Theo ông Nguyễn Nhã, ở đảo Woody, nhà cầm quyền thực dân Pháp đã xây dựng một đài quan trắc khí tượng, số hiệu trong danh sách World Meteorological Organisation là 48859 ở cụm Amphitrite (An Vĩnh).[111] Tài liệu của Pháp để lại thì mãi đến 1937 Pháp thực sự Pháp gửi ngưởi ra đảo Pattle (Hoàng Sa) và đảo Itu Aba wor Trường Sa (coi Phụ Lục theo ngày về nguồn tài liệu).  Ở đảo Pattle (Hoàng Sa), Pháp và Việt Nam Cộng hòa sau này đã xây dựng thành căn cứ quân sự, nhà cửa, đài khí tượng, hải đăng, miếu thờ Bà, cầu tàu, bia chủ quyền và đài khí tượng với danh xưng “Station d’Observation 838.”  Các cơ sở này  chính thức hoạt động từ năm 1938 với 5 nhân viên thuộc ty Khí tuợng Hoàng Sa do chính quyền Nam Việt Nam quản lý. Theo Tập San Sử Địa số 29 xuất bản ở Sài Gòn, từ năm 1931 đến 1975 thường xuyên có một trung đội lính từ Quảng Nam (Trung bộ Việt Nam).[112] Chuyện có lính An Nam trên đảo Pattle năm 1931 là điều chưa có bằng cớ rõ ràng nhưng có thể vì theo ông Nguyễn Đình Đầu đã nói ở trên bản đồ ông có trong tay cho thấy trạm khí tượng đã được xây ở đảo Pattle (Hoàng Sa) năm 1927.  

Ta biết là  chiến tranh Trung Nhật nổ ra vào tháng 7 năm 1937. Chính phủ Nhật quyết định sát nhập Paracels và Spratlys vào Đài Loan thuộc Nhật năm 1937.[113]  Và nhân chiến tranh Trung Nhật nổ ra năm 1937, và đây là thời điểm Pháp gửi quân chiếm Paracels và Spratlys, lúc đó có thể Pháp mới đặt chân đến đảo Woody (Phú Lâm) thuộc cụm Amphitrite.  Theo bài báo Pháp, Question de Hainan của Claudius Madrolle xuất bản năm 1939, Pháp chiếm Paracels ngày 3 tháng 7 năm 1937, dựng hải đăng ở đảo Pattle vào năm 1937 và đài khí tượng vào năm 1938. [114] Thời điểm đem quân ra đảo vào năm 1937 là chính xác giống như các tài liệu mà bà Monique Chemillier-Gendreau Pháp nêu ra, như việc cử Giám đốc công lộ Gauthier ra đảo Pattle xây hải đăng.[115] Cũng theo bà, Toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh vào ngày 15 tháng 6 năm 1938 sát nhập Paracels vào Đông Dương.[116]  Như vậy đài khí tượng và hải đăng có thể xây dựng vào năm 1938 và sớm lắm là năm 1937. Ký ức của ông Nguyễn Đình Dư trên báo Lao động năm 2003 cũng xác định khoảng thời gian này, là từ năm 1937, Pháp đã xây trên quần đảo Paracels một trạm quan trắc, nằm trong mạng lưới khí tượng toàn Đông Dương (thật ra trước đó theo bản đồ của ông Nguyễn Đình Đầu). Theo ông Dư, vào đầu năm 1941, ông ra đến đảo Patlte thuộc quần đảo Hoàng Sa Cư dân trên đảo lúc ông ấy ra đó gồm 30 lính khố xanh, 30 phu tạp dịch, 1 nhân viên phát tín hiệu vô tuyến, 1 nhân viên khí tượng và 1 phiên dịch. Năm ấy, ông ra thay người phụ trách khí tượng tên là Trần. Anh này lúc đi đã mang theo một phụ nữ trẻ, nhưng đành phải cho "bồ" về trước, vì trên đảo toàn cánh đàn ông không tiện chút nào. [117]

Như đã nói do chiến tranh Trung Nhật bùng nổ năm 1937, không có quân đội nào can thiệp việc chiếm đóng quân sự của Pháp. Pháp vẫn coi đảo Pattle là trọng yếu, nhất là hướng dẫn tàu thuyền qua lại khu vực cho nên đã cho xây hải đăng ở đó. Pháp chỉ cho xây đài khí tượng ở đảo Woody (Phú Lâm). Điều này đã được tàu ngầm USS Pargo (SS-264) của Mỹ[118] gửi tới thám thính hoạt động của Nhật ở quần đảo Paracels từ 4-7 tháng 2 năm 1945, cả đảo Woody và đảo Pattle ghi lại rất chi tiết, và xác định ở Woody có hai khu, một khu nhà cũ, và một khu nhà mới có đài radio và theo dõi thời tiết và có treo cờ Pháp nhưng có mặt lính Nhật, còn ở đảo Pattle ngoài đài radio, đài khí tượng thì còn cả hải đăng.  Như vậy có thể nói từ năm 1937 hoặc 1938, lính Pháp đã có mặt ở cả hai đảo Woody và Pattle.  

Nhật và Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa) 

Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi lính Pháp có mặt ở hai đảo Woody và Pattle,  ngày 31 tháng 3 năm 1939, Nhật tuyên bố chiếm Hoàng Sa và Trường Sa và sát nhập vào Đài Loan. Cùng ngày Bộ ngoại giao Pháp phản đối coi đó là lãnh thổ Pháp.[119] Thời gian này lính Pháp và lính Nhật cùng đồng hành có mặt ở Woody (Hoàng Sa), và Itu Aba. Lính Nhật hình như không có mặt ở Pattle, qua việc ông Nguyễn Đình Dư được gửi ra đó năm 1941 và không nói gì đến lính Nhật nói lên điều đó.

Năm 1940, Pháp bị Đức chiếm đóng.

Năm 1940 Nhật mới thật sự đóng chiếm Đông Dương, và năm 1941, Nhật chiếm Paracels (có thể chỉ ở đảo Woody). Đây là lúc Nhật đồng minh với chính phủ bù nhìn Vichy ở Pháp nên quân Pháp và Nhật đồng có mặt trên lãnh thổ Việt Nam kể cả Woody ở Paracels và Itu Aba ở Spratlys.  Sau khi Nhật đầu hàng năm 1945, quân Nhật vẫn đóng quân ở Paracels và Itu Aba (Spratlys) cho đến năm 1946. Hiệp ước Trùng Khánh ngày 28 tháng 2 năm 1946 cho phép Tưởng Giới Thạch giải giáp quân Nhật ở Việt Nam phía bắc vĩ tuyến 16. Tưởng gửi quân tới  Paracels tháng 11 năm 1946.[120]  Tưởng vi phạm Hiệp ước Trùng Khánh cũng gửi quân chiếm đảo Itu Aba ở quần đảo Spratlys.

Vào đầu tháng giêng năm 1947, Pháp gửi quân ra Pattle, 2 sĩ quan, 10 lính người Âu và 17 lính bản địa. Tháng 3 cùng năm Tưởng đặt chân lên đảo Woody (Phú Lâm) và phản đối sự hiện diện của Pháp.   Ngoại giao Pháp Tưởng trở nên căng thẳng. Pháp và Tưởng đàm phán và Pháp đề nghị đưa ra Tòa án Quốc tế.  Vào 5 tháng 5 1949 Trung Quốc (cộng sản) chiếm Hải Nam. Tháng 4 năm 1950 Tưởng rút khỏi Woody (Phú Lâm), Trung Quốc đem quân thay thế.[121] Tháng 10 năm 1950, Pháp giao lại Paracels (Hoàng Sa) cho chính quyền Bảo Đại. Pháp không giao lại Trường Sa. Cho đến nay Itu Aba ở Trường Sa vẫn do Trung hoa Dân quốc chiếm đóng. 

 


 

Phần III

 Đi tìm giải pháp hòa bình và công lý

 

Về quần đảo Paracels (Hoàng Sa) : giải pháp song phương

Tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Paracels (Hoàng Sa) chỉ liên quan đến Việt Nam và Trung Quốc và do đó hai nước cần ngồi lại thương thảo hoặc yêu cầu Tòa án Quốc tế phân xử. Việt Nam dưới thời chúa Nguyễn và thời vua Gia Long và Minh Mạng đã khẳng định chủ quyền ở đây, với đầy đủ bằng chứng lịch sử được ghi trong chính sử của nhà nước và được người phương tây sống cùng thời ghi nhận qua sách vở được xuất bản. Tuy nhiên vì lo chống Pháp, vua quan Việt Nam đã có thời bỏ lơ, không hành xử chủ quyền như trước. Khi Pháp chiếm Việt Nam, cũng có một thời gian Pháp lơ là không hành xử đúng mức để bảo đảm chủ quyền của Việt Nam ở đó. Thời gian lơ là này đã để ngỏ đảo Woody (Phú Lâm) như đất vô chủ cho tư nhân người Hoa và người Nhật vào khai thác phốt phát vì có lẽ Pháp coi những hòn đảo này là không quan trọng. Khi chính quyền cát cứ ở Quảng Đông tuyên bố chủ quyền năm 1909, và sau đó vào năm 1932, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc gửi công hàm cho Pháp lập luận là Paracels thuộc họ, dựa vào Hiệp định Pháp Thanh năm 1887 phân chia biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Bộ (Tonkin). Họ cho rằng Hiệp định này ghi đảo phía đông kinh tuyến 108.2 là thuộc Trung Quốc, do đó quần đảo Paracels nằm ở phía đông là thuộc họ. Lý luận này sai lầm vì Paracels nằm ở Trung Phần, không thuộc Bắc Bộ (Tonkin) nên không thể là cơ sở của lập luận.[122]

Lập luận đòi chủ quyền của Trung Quốc lúc đó hoàn toàn không dựa trên bằng chứng lịch sử mà sau này và cho đến ngày này chính quyền Trung Quốc và học giả Trung Quốc tìm đủ mọi cách chứng minh một cách không thuyết phục là cả ngàn năm Paracels là đất Trung Quốc.  Mãi đến năm 1933, chính phủ Pháp ở Paris mới chính thức tuyên bố chủ quyền do áp lực của dư luận ở thuộc địa Việt Nam gồm cả người Pháp lẫn người Việt.

Tuy nhiên Trung Quốc dùng bạo lực để chiếm đảo Pattle (Hoàng Sa) năm 1974 là hoàn toàn không thể chấp nhận được và vi phạm Hiến Chương Liên Hợp Quốc (Điều 2 mục 3) :

Mọi thành viên [LHQ] phải giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình không gây nguy hiểm đến hòa bình và an ninh của thế giới, và công ly.

All Members shall settle their international disputes by peaceful means in such a manner that international peace and security, and justice, are not endangered.

Việc chiếm cứ bằng bạo lực như thế sẽ vĩnh viễn không bao giờ được người Việt Nam chấp nhận và như thế mãi mãi Trung Quốc sẽ bị coi là kẻ xâm lược đối với dân tộc Việt, nếu không được hai chính phủ ngồi lại thương thảo, xem xét tìm kiếm một giải pháp hợp lý nhất. Tại sao ba lần (1932, 1937, 1947)[123] Trung Quốc từ chối thương lượng với Pháp, hoặc giữa hai bên hoặc thông qua Tòa Án Quốc tế làm trọng tài chỉ có thể hiểu là Trung Quốc không đủ bằng chứng nên sợ thua và do đó không thể dùng bạo lực để kiểm soát Biển Đông Nam Á trong tương lai.

 Về quần đảo Spratlys (Trường Sa): giải pháp đa phương 3 bước

Phần trước đã phân tích rằng, trước khi Pháp xuất hiện ở khu vực, quần đảo Trường Sa là khu vực không người ở, là vùng đất vô chủ - terra nullius.

Tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ Trường Sa đã tạo ra một số vấn đề rất phức tạp như sau:

·    Khu vực Trường Sa bao gồm có cả đảo đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines theo Luật biển Liên Hợp Quốc 1982. Đây là lý do Phi không thể chấp nhận tuyên bố của Pháp năm 1933. Thêm lý do nữa là khi Pháp tuyên bố chủ quyền thì Phi, Mã Lai v.v. lại chưa phải là những nước độc lập để có tiếng nói.

·    Pháp lấy lý do Trường Sa là đất vô chủ để tuyên bố chủ quyền năm 1933 thì điều này không hoàn toàn đúng vì Anh là nước đã tuyên bố chủ quyền trước Pháp ở vài hòn đảo trước đó. Năm 1877, chính quyền thuộc địa Anh ở đảo Labuan (một đảo nhỏ, phía bắc Borneo, do Anh mua lại của Brunei năm 1846) đã cấp giấy phép cho một nhóm doanh nhân và cho phép họ cắm cờ Vương quốc Anh lên đảo Spratly (Trường Sa) và đảo Amboyna Cay (An Bang) để hoạt động thương mại. Hai đảo này đã được đăng ký là lãnh thổ Vương quốc Anh trong những hồ sơ chính thức.[124]  Lúc đó Anh không chính thức phản đối Pháp vì nhu cầu chống Nhật. Điều viết ra ở đây chỉ nhằm nói tới sự phức tạp của vấn đề chứ không ảnh hưởng gì đến tính hợp pháp về tuyên bố chủ quyền của Pháp.

·    Pháp chỉ ghi có 6 đảo, đá ở Trường Sa trong tuyên bố chủ quyền năm 1933.[125] Thực chất là Trường Sa có đến khoảng 170 điểm tự nhiên, với 36 đảo, đá nhỏ tí nhô lên mặt nước, và các bãi cát, v.v.[126] nên ngay việc định nghĩa và xác định nơi cụ thể đã có vấn đến. Vậy chỉ một tuyên bố, liệu Pháp có quyền làm chủ cả những nơi họ chưa biết tới? 

·    Pháp cũng không có đủ tài lực thực hiện chủ quyền trên một vùng biển rộng lớn như thế cho nên Pháp chỉ có thể kiểm soát được đảo Itu Aba là đảo lớn nhất vào năm 1938, sau đó đảo này bị Nhật chiếm, rồi được Nhật trao lại cho Chính phủ Trung Hoa Dân quốc (bây giờ là Đài Loan). 

·    Các đảo đá quá nhỏ (trừ Itu Aba) nên bỏ ngỏ.

·    Sau khi Pháp thua trận ở Điện Biên phủ, Việt Nam Cộng hòa được Pháp chính thức giao lại Hoàng Sa vào tháng 4 năm 1956.  Còn Trường Sa cho đến nay Pháp vẫn chưa chính thức trao trả.  Tuy nhiên Việt Nam Cộng Hòa coi mình có quyền tiếp nối chủ quyền của Pháp nên cùng thời gian trên gửi quân chiếm một số đảo ở Trường Sa. Các nước khác trong vùng ĐNA cũng tuyên bố chủ quyền và ra sức chiếm những nơi không người.

·    Trung Quốc là nước duy nhất dùng bạo lực để chiếm đảo của Việt Nam vào năm 1988.

Vấn đề phức tạp nhất mà bất cứ một tòa án nào cũng phải xem xét ngoài thực tế phức tạp vừa nói trên còn là hai câu hỏi:

·    Liệu một đế quốc hùng mạnh như Pháp có sức đe dọa nhiều nước kém phát triển ở ĐNA đang bị cai trị mà chỉ một câu tuyên bố chủ quyền ở một vùng đất vô chủ là có thể làm chủ tất cả các hòn đảo ở Biển ĐNA, dù chính Pháp không đủ sức thực hiện quyền làm chủ chúng ở mọi nơi, và lại bị Nhật phản đối?

·    Lợi ích sẽ được định như thế nào trên một khu vực rộng lớn mà kết cấu hầu hết là đá? Ngay cả Itu Aba cũng chưa chắc đã đủ tư cách pháp lý để được coi là đảo. Và dù được coi là đảo, dựa vào các tiền lệ xử án của Tòa án Quốc tế đảo này cũng có thể sẽ không có hoặc bị hạn chế quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vậy thì dù có chủ quyền, lợi ích có thể có ở các đảo đá này cũng có thể rất nhỏ. Và trước hết, lợi ích này cũng không thể thực hiện được khi chưa có giải pháp.   

Việt Nam có thể dùng lý luận thừa kế hợp pháp các yêu sách chủ quyền của Chính phủ Pháp năm 1933 để yêu sách. Tuy nhiên điều này sẽ không bao giờ đưa đến một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột ở Biển Đông.

Sẽ là một giải pháp công bằng và hợp lý cho tất cả các bên liên quan nếu bỏ sang một bên thế kỉ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân ở ĐNA. Và dù không bỏ qua thì các đảo đá ở Trường Sa theo công pháp quốc tế khó lòng cho phép một nước làm chủ một vùng biển lớn chung quanh.

Tuy nhiên, đó chỉ là một phần của vấn đề. Yêu cầu quan trọng nhất là Trung Quốc phải từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với vùng nước cũng như các tài nguyên liên quan trong đường ranh giới 9 đoạn hình chữ U tại biển ĐNA, tuyên bố hoàn toàn không thể được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế.

Không nghi ngờ gì khi bất kì tòa án quốc tế nào cũng sẽ từ chối yêu sách chủ quyền của Trung Quốc. Và cũng không nghi ngờ gì khi việc áp đặt đòi hỏi chủ quyền với hơn 80% diện tích biển Đông Nam Á như vùng nội thủy của Trung Quốc sẽ chịu sự phản đối không chỉ từ các quốc gia ĐNA mà còn từ tất cả các cường quốc trên thế giới vì nó vi phạm Luật Biển Liên Hợp Quốc 1982.

Việc đưa ra yêu sách bằng vũ lực có vẻ không phải là khả năng có thể xảy ra trừ khi Trung Quốc bằng cách nào đó trở thành một quốc gia phát xít. Nếu điều này xảy ra thì đó là điều thật không may mắn cho hòa bình khu vực và hòa bình thế giới, các quốc gia trong khu vực không xem nhẹ khả năng ít có thể xảy ra đó khi việc đầu tư một cách lãng phí cho quân sự đang được tiến hành khá nhanh chóng.

Sau khi Trung Quốc bỏ yêu sách biển nằm trong đường chữ U, các nước có thể tiến hành đàm phán. Cuộc đàm phán này sẽ không đòi hỏi các nước tham gia đàm phán phải chấp nhận một điều kiện gì khác hơn là Công ước Quốc tế về Luật biển Liên Hợp Quốc năm 1982 (LBLHQ).  Việc bỏ qua quá khứ thực dân được nói đến ở trên hoàn toàn không phải là điều kiện. Tất nhiên cuộc đàm phán cũng phải xem xét đến hồ sơ của từng nước để đạt được công lý và công bình.

Có 3 bước để triển khai.

Bước đầu tiên là đạt được một thỏa thuận, về nguyên tắc, về bản chất của kết cấu tự nhiên ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà chưa cần quyết định nước nào có quyền sở hữu các đảo nhỏ, rạn san hô, đảo san hô… để xem liệu chúng nên được xác định là các đảo hay các đảo đá theo Công ước Quốc tế về Luật biển Liên Hợp Quốc (LBLHQ) .[127]  Trọng tài quốc tế hoặc là một ủy ban quốc tế với các chuyên gia về Luật biển có thể hỗ trợ được trong việc này.

Bước thứ hai là có một giai đoạn tạm ngừng (đồng nghĩa với việc không khai thác tài nguyên trong và xung quanh khu vực các quần đảo này tính dựa theo thỏa thuận ở bước đầu) cho tới khi quyền sở hữu của các cấu trúc tự nhiên này được xác định. Một đảo (island) được định nghĩa theo LBLHQ sẽ được hưởng vùng đặc quyền kinh tế với diện tích hạn chế dành cho các đảo nhỏ, trên cơ sở tiền lệ phán quyết của tòa án công lý quốc tế. Các đảo đá (rocks) không có vùng đặc quyền kinh tế. Nhưng bước này cho các nước khai thác các vùng nằm ngoài vùng tranh chấp.

Bước thứ ba là giải quyết vấn đề chủ quyền đối với các đảo nhỏ, đảo đá… ở biển ĐNA.

Một giải pháp cho xung đột biển ĐNA ít nhất phải dựa trên cơ sở LBLHQ. Theo đó, một quốc gia ven biển có thể mở rộng chủ quyền của mình ra ngoài vùng lãnh thổ đất liền và vùng nước nội thủy sang vùng tiếp giáp, được mô tả như vùng lãnh hải được tính từ đường cơ sở (Điều 2 và Điều 5). Vùng lãnh hải không rộng quá 12 hải lý (Điều 3).

Nhằm cho phép các quốc gia ven biển sở hữu nhiều tài nguyên thiên  nhiên gắn với vùng đất có chủ quyền hơn, sau nhiều cuộc tranh luận giữa các quốc gia, các nước được phép có quyền chủ quyền với mục đích khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế (điều 56). Vùng đặc quyền kinh tế có thể kéo dài thêm dựa cả trên thềm lục địa của bờ biển của quốc gia đó, đường cơ sở. Nếu tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn lên tuyên bố của quốc gia khác, xung đột phải được giải quyết một cách hòa bình thông qua đối thoại. Tại vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia có quyền chủ quyền nhằm (sovereign rights for) mục đích khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên, nhưng không có chủ quyền (sovereignty). Luật Biển LHQ phân biệt hai quyền: quyền chủ quyền nhằm..chủ quyền. Khi có chủ quyền, nước có chủ quyền có thể cấm tàu bè và máy bay đi qua, hoặc bắt các nước không có chủ quyền phải xin phép và chịu sự kiểm sóat và hạn chế nhất định. Quyền chủ quyền nhằm… chỉ là quyền khai thác kinh tế. Nhưng ở đây, Trung Quốc cho rằng nước có Quyền chủ quyền nhằm…khai thác kinh tế ở vùng đặc quyền kinh tế cũng có quyền cấm tàu quân sự đi qua, như đã định làm nhiều lần với tàu Mỹ.

Do đó, mỗi quốc gia đều có quyền tự do đi lại trên biển và trên không không hạn chế trong vùng đặc quyền kinh tế trừ khi các hoạt động này cản trở hoặc gây hại việc thực hiện quyền chủ quyền của chủ sở hữu đối với vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên.

Ngay cả ở vùng lãnh hải, việc bay qua không phận thì không được phép nhưng việc đi lại không gây hại lại được phép theo LBLHQ.

Theo LBLHQ, có vẻ hầu hết các kết cấu tự nhiên trong các vùng biển ĐNA này là các đảo đá, không phải là đảo. Điều 121 xác định các đảođảo đá như sau:

(1)      Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.

(2)      Trừ khi phải tuân thủ khoản (3), lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác.

(3)      Những hòn đảo đá là nơi không thể tự nó duy trì như nơi cư trú hay đời sống kinh tế của con người, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.  

Vào thời điểm các nước đưa ra yêu sách chủ quyền ở Biển ĐNA, tức là vào đầu thế kỉ 19, thậm chí các đảo nhỏ dù luôn nổi lên trên mặt nước vào lúc thủy triều lên và được bao bọc bởi một số đất và cây cối cũng không thể tự nó đảm bảo sự cư trú của con người hay đời sống kinh tế của riêng họ, và do đó, cũng rất có thể được xem là các đảo đá tại Tòa án Công lý Quốc tế. Tòa án Công lý Quốc tế sẽ xem xét cả thời điểm yêu sách được đưa ra, chứ không phải chỉ xem xét trên cơ sở thời điểm hiện tại hay tương lai của cuộc tranh chấp khi một nước yêu sách đã có năng lực kinh tế khai thác tài nguyên thiên nhiên như đánh bắt cá, khai thác dầu, từ đó có thể xuất khẩu để mua các nhu yếu phẩm hằng ngày đảm bảo duy trì dân số.

Đảo đá chỉ có vùng lãnh hải tối đa là 12 hải lý.

Đá ngầm (reefs) ở dưới mực nước biển vào lúc thủy triều thấp theo điều 6 rõ ràng không được tính như là các đảo đá và không thể có vùng lãnh hải. LBLHQ viết về các đá ngầm như sau:

“Trong trường hợp các đảo nằm trên san hô hay các đảo có đá ngầm ở ven bờ bao quanh, thì đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cùng của các mỏm đá, như đã được thể hiện trên các hải đồ được quốc gia ven biển chính thức công nhận”.

Đó là lý do tại sao, theo điều 60, các đảo nhân tạo và các thiết bị, công trình không được hưởng quy chế đảo:

“Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hoặc thềm lục địa”.  

Hiện nay nhiều nước đã xây dựng các đảo nhân tạo trên các đảo đá ở biển ĐNA với hy vọng sẽ đòi được vùng lãnh hải hoặc vùng đặc quyền kinh tế, nhưng điều 60 của LBLHQ đã loại bỏ chúng.

Nhìn chung, như đã nêu ở trên, hầu hết các cấu trúc tự nhiên ở biển ĐNA có thể sẽ được Tòa án Công lý Quốc tế phán quyết là các đảo đá và do đó, chúng chỉ có vùng lãnh hải tối đa là 12 hải lý.

Ngay cả khi được coi là đảo, Tòa án Công lý Quốc tế cũng sẽ hạn chế không gian của vùng đặc quyền kinh tế trong các cuộc tranh chấp về các vùng đặc quyền kinh tế (và do đó cả thềm lục địa) khi hai nước có bờ biển đối nhau và khi đường trung tuyến được sử dụng để phân định ranh giới trên biển. Clagget [128] đã phân tích sâu vấn đề này và chỉ ra rằng các đảo nhỏ sẽ bị bỏ qua , không được coi là căn cứ để xác định đường trung tuyến vì công bằng và cân xứng là các nguyên tắc được Tòa án Công lý Quốc tế đưa ra độc lập với LBLHQ để xác định trung tâm của đường ranh giới trên biển. Một vài nhận định của Clagget dựa trên các quyết định trước đó của Tòa án Công lý Quốc tế, ví dụ như:

 

Trong trường hợp các bên quốc gia tranh chấp nhìn đối diện nhau qua vùng nước (quốc gia đối diện), thay vì liền kề nhau trên cùng một bờ biển (quốc gia liền kề), tòa án sẽ bắt đầu công việc của mình bằng các xây dựng, giống như một đường ranh giới dự kiến, một đường trung tuyến giữa hai quốc gia.

Hơn nữa, với các quốc gia đối diện nhau, việc sử dụng đường trung tuyến nhìn chung thường đảm bảo một kết quả phân định công bằng và cân xứng. Tòa án Công lý Quốc tế sau đó giải thích trong quyết định đầu tiên về thềm lục địa trong Các Vụ Thưa kiện về Thềm Lục địa ở Biển Bắc như sau: “Với khu vực thềm lục địa trải dài và chia cắt, các quốc gia đối diện nhau có thể tuyên bố chủ quyền của mình trên cơ sở đường kéo dài tự nhiên của lãnh thổ. Những đường kéo dài gặp nhau và chồng lấn, và do đó, có thể được phân định bằng cách sử dụng đường trung tuyến ở giữa; và, bỏ qua sự hiện diện của các đảo nhỏ, đảo đá và các chỗ nhô ra nhỏ ở ven biển, có thể được loại bỏ sự phân chia méo mó bất cân xứng bằng các cách  khác, đường phân chia phải có hiệu lực phân chia công bằng một khu vực cụ thể có liên quan… Vụ thưa kiện loại này do đó sẽ khác với loại trường hợp các quốc gia liền kề cùng chung bờ biển và không có đường bờ biển đối diện trực tiếp ngay trước mặt, và không đặt ra cùng một loại vấn đề….”

“Trường hợp khác, ở Guinea/Guinea-Bissau, tòa án đã vẽ đường ranh giới hoàn toàn bỏ qua sự hiện diện của các đảo nhỏ trong trường hợp nó không gây ra sự méo mó hay bất cân xứng.”

“Quy định là các đảo nhỏ, đặc biệt là các đảo không người ở, không có giá trị kinh tế đáng kể và nằm cách xa đất liền của nước sở hữu chúng, thì sẽ bị bỏ qua, không được xem là điểm cơ sở để xác định đường trung tuyến như đã nêu một phần trong điều 121 (3) của Công ước, theo đó, “các đảo đá không thể tự nó duy trì như nơi cư trú hay đời sống kinh tế của con người thì không có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.”

Nếu các đảo nhỏ nằm trong vùng biển được trao [quyền] cho quốc gia khác, các đảo này sẽ bị bỏ qua như là điểm cơ sở xác định đường trung tuyến và giới hạn trong khoảng 12 hải lý.” 

Mặc dù các tranh chấp ở biển ĐNA rất phức tạp, việc chấp nhận phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế không nghi ngờ gì sẽ dẫn tới một giải pháp công bằng và hợp lý cho tất cả các bên liên quan, nhưng phải được sự chấp thuận trước của tất cả các nước sở hữu các đảo nhỏ, đảo đá.. ở biển ĐNA.

Một lối thoát trong bước 3 để giải quyết vấn đề chủ quyền đối với các đảo nhỏ, đảo đá… ở biển ĐNA bao gồm 2 lựa chọn:

  1. Tất cả các đảo nhỏ, đảo đá… ở biển ĐNA nên được xem là tài sản chung của tất cả các quốc gia có bờ biển giáp với biển ĐNA. Nguồn thu nhập ròng từ tài nguyên trong biển ĐNA nên được phân chia theo tỷ lệ tương ứng với quy mô của đường cơ sở thẳng ven biển của mỗi quốc gia.

  2. Các nước có chủ quyền đối với những điểm mà họ đang chiếm giữ, nhưng chỉ có đảo đá và đảo nhỏ có vùng lãnh hải 12 hải lý.

Clagett[129]  cũng tiến hành một nghiên cứu mang tính thử nghiệm trong việc phân chia dựa trên đường bờ biển của các quốc gia liên quan và bỏ qua tất cả các kết cấu đả ở biển ĐNA. Điều quan trọng cần nhắc là các đường bờ biển này do Clagett giả định cần được kiểm tra lại, nhưng nó cũng cho thấy định hướng về một giải pháp công bằng và hợp lý cho xung đột ở biển ĐNA. Quan trọng hơn thế, nghiên cứu này dựa việc phân lợi ích cho toàn Biển ĐNA, bỏ qua ai là chủ nhân các đảo Paracels và Spratlys.

Việc tổ chức phân chia lợi ích có thể thông qua một cơ quan đa quốc gia quản lý vùng biển ĐNA do các nước có biên giới với biển ĐNA tổ chức ra. Để tạo đoàn kết giữa các nước ASEAN, một phần lợi ích có thể đem chia sẻ dưới hình thức viện trợ không hoàn lại cho các nước trong khu vực không có biển. 

 

Chiều dài bờ biển tương ứng (hải lý)

Tỷ lệ trong tổng chiều dài bờ biển

Diện tích đáy biển được giao (hải lý vuông)

Tỷ lệ phần trăm đáy biển

Trung Quốc

789

29.9

191,819

26.2

Indonesia

35

1.3

28,086

3.8

Malaysia

510

19.4

92,732

12.8

Philippines

667

25.3

221,896

30.3

Việt Nam

635

24.1

196,582

26.9

 

PHỤ LỤC

Niên đại các sự kiện lịch sử liên quan đến Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys) với chú giải

 

....

Các bản đồ và các tài liệu từ thời Hán liên quan đến hai khu đảo. Coi trong bài viết. .

Nhà Minh (1368-1644)

Kê Lung Sơn (Ji Long Shan, 雞籠山) là tên cổ của Đài Loan ngày nay, vào thời nhà Minh cũng không được coi là thuộc Trunq Quốc, mà Minh Sử ghi vào phần nước ngoài. Đảo to như thế, lại gần lục địa mà vẫn chưa được coi là thuộc cương vực Trung Quốc thì khó lòng các đảo nhỏ và xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa lại được để ý tới. 

Năm 1624, Hà Lan chiếm Đài Loan làm thuộc địa, và đưa người Hoa từ lục địa sang làm việc.

Nhà Thanh (1644-1912)

1662, Trịnh Thành Công (Zheng Cheng-gong, 成功) người trung thành với nhà Minh đánh bại người Hà Lan. Lực lượng này sau đó bị nhà Thanh đánh bại năm 1683 , Đài Loan trở thành một phần của Trung Quốc. 

Tháng 1/1789

Nguyễn Huệ xưng danh Hoàng Đế Quang Trung, thay vì chỉ xưng vua sau khi đánh bại đoàn quân xâm lược nhà Thanh, ước khoảng 200.000. Cuộc xưng vương này là hành động tượng trưng nhằm chứng tỏ rằng Việt Nam là quốc gia độc lập với Trung Quốc

1802

Gia Long đánh bại nhà Tây Sơn, thống nhất Việt Nam và lập ra nhà Nguyễn.

1816

·        Vua Gia Long, cũng theo bước chân Quang Trung, xưng danh Hoàng Đế. Cắm cớ trên quần đảo Hoàng Sa (Paracels). Sự kiện này được Giám mục Bishop Jean Louis ghi lại trong quyển sách Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes, xuất bản năm 1833. Phần trích và dịch có trong bài chính.

·        Hành động của vua Gia Long và quần đảo Hoàng Sa (Paracels) cũng được Jean Baptiste Chaigneau ghi lại trong  Memoire Sur La Cochinchine (1769-1825), viết trước năm  1825 (năm ông chết) và được xuất bản năm 1925 trong Bulletin Des Amis du Vieux Hue, no. 2, 4, 6. Phần trích và dịch có trong bài chính.

1833, 1834, 1835, 1836

Vua Minh Mạng sai tổ chức độ thủy thủ gửi ra Hoàng Sa xây miếu, trồng cây, vẽ bản đồ. Các việc này đều được ghi trong Đại Nam Thực Lục, chính sử nhà Nguyễn. Phần trích và dịch có trong bài chính. Cho đến nay vẫn chưa rõ kết quả của việc sai vẽ bản đồ như thế nào và để ở đâu.

1847

Đoạn báo cáo này cho thấy tàu đắm ở Hoàng Sa là thường xuyên. Nơi đắm tàu phải là các đảo ở Paracels nhưng phía gần bờ biển Việt Nam nếu trôi dạt tới Việt Nam.  Và việc vua chúa đối đãi tử tế với người đắm tàu cũng rất là bình thường. Từ đó có thể hiểu nhiều nhà hàng hải tây phương coi Hoàng Sa thuộc Việt Nam.

Tạp chí "Allen's Indian mail, and register of intelligence for British and foreign India, China and all parts of the East", Vol.  5, do H. Allen and Co. ở London xuất bản năm1847, ở trang 462 có nó đến thái độ nhân đạo của vua nhà Nguyễn, và so với thái độ mọi rợ của Thuyền trưởng Pháp, M. La Pierre, người tấn công và giết hại cả ngàn người với lý do đòi hỏi nhà vua thả các giám mục Pháp bị bắt, mà bản báo cáo này cho là không đúng sự thật.  Bản báo cáo viết: “Không phải quá lời khi nói rằng không có quốc gia nào ở châu Á lại nhân đạo và rộng rãi với người nước ngoài như dân ở đây…Chỉ trong vài năm qua, đã cho thấy chứng cứ về tính cách này mà Châu Âu văn minh có thể thấy xấu hổ. Thuyền bè nước ngoài liên tục bị đắm và thủy thủ - Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Hòa Lan, châu Âu, Ấn độ - bị trôi dạt vào bờ; các thủy thủ đó trong mọi trường hợp đều bị thương, nhưng được đối xử tử tế, với sự thông cảm hiếm thấy…tàu  câu Castle Huntley, trọng tải 1500 tấn, bị đắm 16 tháng trước đó ở Paracels, 60 thủy thủ bị trôi đến đàng ngoài, gần như chết, nhưng lại được những sinh vật tử tế này săn sóc rất ân cần; họ được ăn, mặc, chăm nuôi; người yếu được kiệu; lại được phát tiền mua các thứ cần thiết, và nhà vua lại gửi họ lên tàu đi Singapore do chính ông lái.”

“It needs no violence of language to state the fact that, there is no a nation in all Asia so human or generous in their treatment of foreigners, as this people. ….The last few years alone have furnished such illustrations of this characters as might put civilized Europe to the blush. Foreign ships have been repeatedly wrecked, and their crews – French, British, Spanish, Dutch, European sailors and lascars – cast away on that iron-bound but hospitable coast; and the shipwrecked mariners have in every instance not only been uninjured, but treated with a kindness and sympathy perfectly romantic. …The ship Castle Huntley, of 1500 tons , was wrecked only sixteen months ago on the Paracels , and sixty crews of her cast away on the Cochin Chinese coast, more dead than alive, were taken care of by these kind creatures with the utmost tenderness; they were fed, clothed and nursed; the weak were carried in sedan chairs; money were provided for their necessities; and finally, the King sent them down to Singapore in a ship freighted by himself on purpose. “           

1/9/1858

Pháp tất công Đà Nẵng với lý do bảo vệ người Công giáo bị bách hại, mở đường cho quá trình chiếm Việt Nam của thực dân Pháp. Sau Đà Nẵng, Pháp chiếm 4 tỉnh miền Tây, bắt buộc Việt Nam ký hòa ước 1862 nộp 3 tỉnh cho Pháp.  Đây là thời trị vì của vua Tự Đức (1847-1883). Trung Quốc dự định can thiệp vì họ coi Việt Nam là nước chư hầu, nhưng bị Pháp đánh bại trong cuộc chiến tranh ở biên giới, buộc Trung Quốc phải ký hiệp ước Thiên Tân. 

1876-1877

Một tác giả người Hoa viết trên Ming-Pao Nguyệt san (Ming-pao Monthly) cho rằng Đại sứ đầu tiên của Trung Quốc ở Anh, Kuo Sung-tao, nói rằng Paracels thuộc Trung Quốc và vào năm 1883 chính phủ nhà Thanh đã chính thức phản đối cuộc thám hiểm ở đảo này do Đức tổ chức. [130] Điều này tác giả Samuels nói rằng nội dung phản đối không rõ, không được ghi lại chính thức trong thư khố Anh và do đó không thể coi là tuyên bố chủ quyền.

1877

Anh cho phép công ty tư cắm cờ chủ quyền khai thác hai đảo  Spratly Island và Amboyna Cay ở quần đảo Spratlys (Trường Sa) vào năm 1877.[131]

Tháng 9/1883

Pháp lại tấn công Đà Nẵng và chiếm Thuận An, nhà Nguyễn phải ký Hòa ước Huế, chấp nhận Nam Việt Nam là thuộc địa Pháp, Bắc và Trung Việt là xứ bảo hộ. [132]

6/ 6/1884

Vua nhà Nguyễn phải ký Hòa ước Patenotre. Hòa ước này là cơ sở cho chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam. Theo Điều 1, “Việt Nam chấp nhận đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Pháp sẽ đại diện Annam trong mọi hoạt động ngoại giao. Người Việt Nam ở nước ngoài sẽ đặt dưới sự bảo vệ của Pháp.[133]

9/6/1885 

Hiệp ước Thiên Tân nhấn mạnh những gì đã ký ngày 11 tháng 3 năm 1884 là,[134] bảo đảm Pháp sẽ rút khỏi Đài Loan để có thương quyền ưu đãi và nhà Thanh phải từ bỏ bá quyền lịch sử ở Việt Nam. (1) Trung Quốc phải lập tức rút quân về phía biên giới Trung Quốc và (2) phải tôn trọng trong hiện tại và tương lai các hiệp ước đã ký hoặc sẽ ký giữa Pháp và triều đình Huế.[135] Việc phân ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam được thực hiện sau đó vào năm 1887. 

26/6/1887

Việc phân định biên giới Trung Quốc và Bắc kỳ (Tonkin) bắt đầu vào cuối năm 1885 và hoàn thành vào năm1887.  Hiệp ước này được ký ở Bắc Kinh vào ngày 26 tháng 6 năm 1887 giữa đại diện Pháp và Trung Quốc. Hiệp định đó có tên “Convention relative à la delimitation de la frontière entre la Chine et le Tonkin”. Đoạn dịch ở đây rất quan trọng vì chính quyền Trung Quốc và học giả Trung Quốc đã sử dụng nó để cho là Hoàng Sa thuộc Trung Quốc. Điểm quan trọng cần vạch ra là Hoàng Sa nằm ở Trung Phần không thuộc Bắc kỳ (Tonkin), như tên của Hiệp định đã nói rất rõ. Nhiều tác giả trong đó có cả Marwyn S. Samuels, [136] một tác giả có thể coi là khách quan, đã sai lầm trong việc hiểu Hiệp định trên khi cho rằng Lý Chuẩn được gửi ra Paracels (Hòang Sa) là nhằm thực hiện Hiệp ước 1887, nhắc lại những gì Trung Quốc viết cho Bộ Ngoại giao Pháp năm 1932 cho rằng Hiệp định này giao Paracels cho Trung Quốc (coi ghi chú 1932).  Tác giả này và các tác giả khác không phân tích để thấy rằng nếu kéo đường kinh tuyến này dài xuống miền Trung Việt Nam thì nó đi vào cả đất liền của Việt Nam.[137]

Hiệp định đó viết :

« Từ Quảng Đông, các điểm tranh cãi nằm ở phía đông Móng Cái, thêm vào biên giới đã được hai bên khẳng định, có thể coi là thuộc Trung Quốc. Các đảo ở phía đông dọc theo đường kinh tuyến 105°43’ tính từ Paris, tức là theo trục bắc nam, đi qua phía tây đảo Trà Cổ và coi là đường biên giới thuộc về Trung Quốc. Đảo Gotho (Cồn Cổ) và các đảo khác ở phía tây đường kinh tuyến thuộc An Nam”.

From Quangdong, the disputed points lying on the east to the northwest of Mongcai, in addition to the boundary confirmed by the two sides, can be regarded as belonging to China. The islands on the east along the 105°43’ meridian of Paris, i.e. along the north south axis, crossing the west of the island Tch’a Kou or Ouan-Chan (Trà Cổ) and serving as the boundary line also belonged to China. The islands Gotho and other islands on the west of the meridian belonged to Annam.”[138]

17/10/1887

Thiết lập Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, bao gồm ba phần của Việt Nam (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ), Cam Bốt và Lào.

1895

Nhà Thanh nhường Đài Loan cho Nhật sau khi thua trận.  Sau Thế chiến Thứ hai, Cộng hòa Dân Quốc trốn chạy ra đảo năm 1949. Nhật chính thức trả Đài Loan cho Trung Quốc sau 1952. [139]

1899

Toàn quyền Đông Dương, Paul Doumer, ra lệnh xây hải đăng ở Hoàng Sa. Việc này không thực hiện được vì thiếu tiền. 

1895 – 1896

Vụ việc La Bellona và Imeji Maru. Hai tàu này bị đắm gần Paracels (Hoàng Sa), một cái năm 1895 và một cái năm 1896. Ngư dân ở đảo Hải Nam, Trung Quốc ra nhặt đồng và tìm cách bán. Công ty bảo hiểm hai tàu này phản đối với chính phủ Trung Quốc (nhà Thanh). Chính phủ Trung Quốc trả lời là Trung Quốc không trách nhiệm vì Paracles không phải là lãnh thổ Trung Quốc mà cũng chẳng phải là lãnh thổ Annam.[140]

1902

Tàu kiểm tra dưới sự điều khiển của đô đốc Lý Chuẩn (Lichun/lizhun) ra Paracels.[141] Nhóm này ra đó cắm cờ, và dựng bia mà Quân Giải phóng Trung Quốc cho rằng họ đã tìm thấy nâm 1979.[142] Marwyn Samuels cho rằng tây phương không để ý đến chuyện này. Bà Chemillier-Gendreau thì cho rằng chuyến đi năm 1909 của Lý Chuẩn mới ra đó dựng cờ và mới kéo dài 1 tháng. Bản báo cáo cho thấy sự hiểu biết về đảo của đoàn này rất sơ sài vì có lẽ chỉ đi qua cho biết. Nếu không thì không có chuyến thứ hai vào năm 1908. Vậy thì cũng nên đánh dấu hỏi và kiểm kê lại tài liệu về hoạt động năm 1902 của Lý Chuẩn.[143] Tuy vậy, nguồn tài liệu của bà Chemillier-Gendreau đưa ra vẫn chưa rõ ràng. Hai tác giả trên có người nói 1909, có người nói 1908. Theo Hoàng Phùng Quân, đọc sách Trung Quốc nói đến Lý Chuẩn Tuần Hải Ký (李 准 巡 海 記) năm Tuyên Thống nguyên niên, tức là năm 1909. Từ đây sẽ dùng ngày này. 

1907

Lo sợ Pháp sẽ chiếm, nhà doanh nghiệp và mạo hiểm Nhật Nishizawa Yoshiji chiếm Pratas Island (Trung Quốc gọi là Đông Sa). Tỉnh trưởng (Governor) Quảng Đông phải trả tiền để chuộc lại đảo. (Đảo này không nằm trong khu vực tranh chấp ngày nay).[144]

1908-1909

Chuyến đi thứ hai mà Quảng Đông tổ chức xảy ra 1909. Tỉnh trưởng Quảng Động sợ Nhật chiếm Paracels (Hoàng Sa) nên đã lập một ủy ban quản lý vùng và lệnh cho đô đốc Lý Chuẩn tổ chức chuyến đi ra đó một tháng. Chương trình 8 điểm được dựng lên và được Hoàng đế chấp thuận, coi Hoàng Sa thuộc Hải Nam. Theo Samuels, kế hoạch này vì lý do nào đó đã không được tỉnh trưởng mới thực hiện. [145]   Sự kiện có Hoàng đế TQ chấp thuận được một tác giả người Hoa nói đến nhưng Samuels viết trong ghi chú là “tìm trong các báo cáo thời Quang Tự (光绪, Quangxu, Kuang Hsu), Phổ Nghi (溥仪, Puyi, Hsuan T’ung) khoảng thời gian 1907-09 đều không thấy có quyết định nào của Hoàng đế về việc này….Xem xét các thông báo địa phương (Fang-chih) cũng không thấy”. [146]

Một cuộc viễn hành khác từ Hồng Kông được tổ chức vào 21 tháng 5 năm 1909 để cắm cờ Trung Quốc trên đảo và để tuyên bố chủ quyền. Những hành động này cho thấy khẳng định rằng Trung Quốc đã chiếm cứ và cai trị cả ngàn năm là không đúng sự thật. Đã thật sự cai trị được sao lại liên tiếp sai người ra tìm hiểu về đảo và cắm cờ? [147]

Những sự kiện này chỉ là hành động của chính quyền địa phương, không đại diện cho Trung Quốc.  

1920

Công ty Nhật Mitsui-Bussan Kaisha yêu cầu Pháp cho phép khai thác phốt phát ở vài hòn đảo ở Paracels (Hoàng Sa). Pháp thực hiện quyền kiểm soát biển, thu thuế hải quan ở Paracels (ở đâu thì không rõ).[148]

1920

1919, phong trào Ngũ Tứ (May fourth movement) nổ ra ở Trung Quốc phản đối các điều khoản áp đặt của Hiệp ước Versailles, chấm dứt Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất. Năm 1920 Tôn Dật Tiên lập chính quyền cách mạng ở miền Nam Trung Quốc. Trung Quốc bị chia lẻ thành nhiều chính quyền cát cứ. Năm 1925, Tôn chết, Tưởng giới Thạch chiếm quyền và bắt đầu chiến dịch phản cát cứ, nhằm thống nhất Trung Quốc. 

1921

Tỉnh trưởng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây), một chính quyền cát cử dưới quyền kiểm sóat của đội quân Ch’en kang-ming[149], tuyên bố Paracels là một phần của Yai Hien (ở đảo Hải Nam).  Trung Quốc không yêu sách Trường Sa (Spratlys). 

Pháp không trả lời vì coi đây là chính quyền cát cứ địa phương không được chính quyền trung ương của Tưởng Giới Thạch (蔣介石) hay thế giới công nhận.[150] Tonnesson nói đến một ghi nhận (memoire) ở Bộ Ngoại giao Pháp, cho thấy Pháp biết chuyện này nhưng không cho biết tại sao Pháp lại không phản ứng.[151] 

1921-1926

Hồ Duy Niên (Ho Jui-nien) người gốc Đài Loan (lúc đó là thuộc địa Nhật) được chính phủ cát cứ tỉnh Quảng Đông cho độc quyền khai thác phốt phát ở Paracels [thực ra chỉ ở đảo Woody  (Phú Lâm) trong khu Amphitrite]. Các nhà doanh nghiệp khác phản đối vì họ cho rằng công ty của Hồ Duy Niên là do Nhật làm chủ. [152] 

Đảo Woody  (Phú Lâm) có trữ lượng phốt phát phân chim lớn nhất Paracels.

Ngày 25 tháng 7 năm 1925, công ty ở đảo Phú Lâm ghi nhận thấy có một tàu chiến Pháp. Tàu này bỏ xuống đảo 5 người và hai ngày sau trở lại đón họ. Tàu không có hành động chiếm đóng đảo.[153]

Ngày 3 tháng 7 năm 1926, một tàu chiến khác lại tới đảo Phú Lâm nhưng cũng không chiếm đảo.[154]

Lo sợ Nhật chiếm đảo Phú Lâm, Quảng Đông gửi công nhân người Hoa ra đảo, nhưng khi thấy chủ nhân và thiết bị của Nhật, công nhân người Hoa tự rút vì đang có phong trào bài hàng hóa Nhật.

Đảo Phú Lâm lúc này chẳng nằm dưới sự kiểm sóat của Trung Quốc cũng chẳng nằm dưới sự kiểm soát của Pháp.

Nhật không chấp nhận yêu sách của Pháp ở Paracels (Hoàng Sa), và coi tranh chấp ở đây là giữa Nhật và Trung Quốc.[155] Vì thấy có Nhật ở đảo Phú Lâm, Pháp chưa muốn hay chưa dám thực hiện chuyền làm chủ ở đó. 

8/3/1925

Một đoàn khoa học do Tiến sĩ  A. Krempf, Giám đốc Viện Hải Dương (Director of the Oceanographic Service), đi trên tàu đánh cá  de Lanessan ra đảo Paracels.

Ngày 8 tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa (Paracels and Spratlys) thuộc Pháp.[156]

23/9/1930

Toàn quyền Đông Dương gửi tàu Malicieuse  ra Trường Sa (Spratlys). Đoàn này cắm cớ Pháp trên một ngọn đồi. Bản Thông cáo ngày 23 tháng 9 năm 1930 được gửi đến các nước lớn nói về việc này.[157]

1931-1932

Trung Quốc cấp một hợp đồng khai thác phốt phát ở Hoàng Sa (Paracels). Chính phủ Pháp gửi một công hàm (a Note) về chủ quyền đẩo cho đại diện Trung Quốc (Legation) ở Paris ngày 4 tháng 12 năm 1931.

29 tháng tư năm 1932 - Chính phủ Pháp chính thức phản đối, lấy lý do chứng cứ chủ quyền lịch sử ở đó của Annam mà Pháp tiếp nhận. Cùng năm, Pháp đề nghị đem vấn đề tranh chấp xử ở tòa án quốc tế, Trung Quốc không đồng ý. [158]

26/7/1933

Pháp sát nhập Spratys (Trường Sa) vào Đông Dương. Ba tàu Pháp Alerte, Astrabale, và De Lanessa được gửi thăm quần đảo và chính thức tuyên bố là lãnh thổ Pháp trên cơ sở đây là vùng đất vô chủ. Sau đó, Bộ Ngoại giao Pháp cho in tin này trên Công báo Chính thức của nhà nước Pháp (French Journal Official) ngày 26 tháng 7 năm 1933 (trang 7837). [159]

21/12/1933

Toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh Số 4762-CP ngày 21 tháng 12 năm 19933, sát nhập Spratys (Trường Sa) vào tỉnh Bà Rịa của Thuộc địa Nam Kỳ (Cochinchina) của Pháp.  Pháp cũng chỉ tuyên bố chủ quyền trên 6 hòn đảo chứ không phải tất cả các đảo ở Trường Sa, như vậy theo bà Chemillier-Gendreau việc có thể coi giải thích yêu sách tất cả các đảo là có vấn đề.[160]

Sắc lệnh trên có tên những đảo sau:  Spratly (đảo Trưng Sa), Amboyna Cay, Itu-Aba, và hai nhóm đảo Loaito và Thi-tu. [161] Đếm số đảo thì chỉ có 5 đảo so với số 6 mà Chemillier-Gendreau nói tới. Theo Nguyễn Nhã,[162] nhóm Loaito chỉ có 1 đảo, còn lại đá, cồn, bãi, nhưng phía đông có đảo dừa, nếu kể thì là 6 đảo. Khu Loaito và Thị-tứ hiện do Phillipines chiếm đóng.

1933

Trừ Nhật, không nước nào phản đối Pháp về tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa. [163] Ba cường quốc khác ở khu vực là Mỹ (lúc đó đang chiếm Philippines, Trung Quốc, và Hòa Lan (đang chiếm Indonesia không lên tiếng.  Theo Tonnesson, mặc dù không thấy có tư liệu gì ở Bộ Ngoại giao Pháp cho thấy Trung Quốc phản đối, tài liệu tình báo Anh cho thấy một bộ trưởng Trung Quốc được lệnh phản đối.[164]

1934

Pháp thực hiện một cuộc nghiên cứu về địa lý và địa chất khu vực Trường Sa.

28/2/1937

Pháp lại đề nghị Trung Quốc hòa giải quốc tế về Hoàng Sa nhưng Trung Quốc từ chối.[165]

1937

Pháp sai người trách nhiệm về công lộ là ông Gauthier ra đảo Pattle (Hoàng Sa) ở Paracels để xem xét khả năng xây dựng các cơ sở hạ tầng như cầu cảng, sân bay, và xây hải đăng.[166] Bà Chemillier-Gendreau coi năm 1937 là năm bản lề đánh dấu việc thực thi chủ quyền của Pháp ở Paracels. [167] 

1938

Và với Nghị định ngày 15 tháng 6 năm 1938 thì việc thực hiện chủ quyền một cách chính thức có thể coi là hoàn tất. [168] Một bia được dựng lên trên đảo Pattle (Hoàng Sa Paracels) vào năm 1938, ghi những chsau: Cộng hòa Pháp – Vương Quốc Annam – quần đảo Paracels 1816-1838.

Thời gian từ 1937-1938 này một hải đăng và một đài khí tượng cũng được xây trên đảo Pattle (Hoàng Sa), và trên đảo Itu Aba ở Trường Sa (Spratlys). Hải đăng ở đảo Pattle (Hoàng Sa) trong chiến tranh bị phá hủy, Pháp xây lại năm 1947.[169]

Pháp để lại đội cảnh sát An Nam ở đảo Woody (Phú Lâm) và đảo Pattle (Hoàng Sa) ở Hoàng Sa (Paracels) nhằm chống cướp biển và nhằm ngăn cản Nhật sử dụng đảo, và báo cho chính quyền Trung Quốc lý do, coi đây không phải là thực hiện chủ quyền. Lúc này, quân đội Nhật đã có mặt ở hai đảo: đảo Woody (Phú Lâm)  vào tháng giêng năm 1938 và đảo Lincoln vào tháng tư cùng năm.[170]  

1938

Tháng giêng năm 1938 quân đội Nhật đã có mặt ở đảo Phú Lâm (Woody) và đảo Lincoln Island - cả hai đảo đều ở khu Amphitrite (An Vĩnh) trên quần đảo Paracels. Khi tàu Pháp tới họ gặp hai tàu chiến Nhật. Pháp và Nhật cùng đồng hành có quân trên đảo Phú Lâm (Woody).

1938

Khi Pháp chiếm đảo Itu-Aba ở Trường Sa, và ở đó từ năm 1938 đến 1941, đồng thời xây đài khí tượng thì Nhật chiếm các đảo khác ở Trường Sa vì Pháp không có quân. Điều này làm Anh nổi giận vì Pháp đã tuyên bố chủ quyền mà không làm tròn trách nhiệm, tức là Anh không phản đối mà Pháp không làm được việc bảo vệ khu vực Trường Sa. Anh dọa nếu Pháp không làm được thì Anh sẽ tuyên bố chủ quyền mà trước đây vào năm 188 họ đã làm năm 1877.[171] 

28/1/1939 

Nhật chiếm đảo Hải Nam của Trung Quốc.

4/4/1939 

Nhật tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Pháp phản đối, nhưng không có dấu hiệu đánh nhau giữa hai quân đội. Pháp và Nhật đồng hành hoạt động ở hai quần đảo.[172]

Tháng 5/1939

Toàn quyền, Jules Brevie, sửa lại nghị định trước đây, phân thành hai khu hành chính ở quần đảo Paracels: khu Lưỡi Liềm (Crescent) và khu An Vĩnh (Amphitrite).[173]

1941

Nhật chiếm các đảo ở Paracels và Spratlys và sát nhập vào Đài Loan khi Chiến tranh Thế giới lần 2 nổ ra. 

1/12/1943 và 26/7/ 1945

Tuyên bố Cairo Declaration (1December 1943) viết: “Tất cả lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc như Mãn Châu, Đài Loan, đảo Pescadores phải được trao trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc (Republic of China). Nhật cũng phải rút khỏi tất cả mọi lãnh thổ khác đã chiếm đóng bằng bạo lực và tham lam.”[174]

Tuyên bố Potsdam (26 July 1945)[175] nhấn mạnh lại Tuyên bố Cairo và qui định các điều khoản về việc đầu hàng của Nhật.

Cả hai tuyên bố này của Đồng minh hoàn toàn không nói rằng Nhật phải trao trả Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa) cho Trung Quốc như Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã viết ra như sau: “Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam và các tư liệu quốc tế khác đã viết ra rõ ràng là tất cả lãnh thổ mà Nhật ăn cấp của Trung Quốc phải trả lại Trung Quốc, và đương nhiê, chúng bao gồm Nam Sa hải đảo.[176]

Thực ra, Liên Xô đã đề nghị trao Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa) cho Trung Quốc ở Hội nghị San Francisco năm 1951 nhưng bị bác bỏ (coi 1951).

Tháng 5/1946

Một tàu Pháp được gửi ra đảo Pattle (Hoàng Sa) ở Paracels và thấy nhà cửa bị bom tàn phá nặng nề. [177]  Theo Chemillier-Gendreau, vào tháng 3, 1945, một phân đội người bản xứ Đông Dương ở Paracels bị Hải quân Nhật bắt làm tù bình. Mãi đến năm 1946 Nhật mới rời Paracels, và tháng 5 năm 1946, một đội lính Pháp theo tàu Savorgnan de Brazza đổ bộ ra đó và ở vài tháng. [178] Bản báo cáo chính thức của Pháp cho thấy vào năm 1947 Pháp chần chừ chưa muốn trở lại đảo Pattle (Hoàng Sa) vì không thấy giá trị chiến lược.[179]

Tưởng Giới Thạch chỉ chiếm đảo Woody (Phú Lâm) vào năm 1947, nhưng lại không chiếm đảo Pattle (Hoàng Sa). Pháp không kiếm cách đẩy người Hoa ra khỏi đảo Woody (Phú Lâm) ở Paracels cũng như đảo Itu Aba ở Trường Sa.  

Tháng 10/1946

Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố chủ quyền trên Tây Sa (Paracels) và Nam Sa (Trường Sa) và sát nhập vào tỉnh Quảng Đông.

Tháng 12/1946

Đài Loan gửi tàu Thái Bình (Taiping) ra tiếp quản đảo Itu Aba ở Trường Sa từ tay Nhật sau khi Nhật đầu hàng sau Thế chiến. Vào 12 tháng 12, 1946, đảo này được đặt dưới quyền quản lý của tỉnh Quảng Đông. Sau khi Trung Cộng chiếm lục địa, Đài Loan tiếp tục có quân đội ở đây cho đến ngày nay.

28/ 2/1946

Thảo thuận Pháp Trung ký ở Trùng Kháng (Chung King) cho phép Pháp tiếp nhận Bắc Kỳ từ tay Trung Hoa Dân Quốc.[180]

Tháng 1/1947

 (7 hay 13 tháng giêng tùy theo từng nguồn), Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ xuống đảo Woody (Phú Lâm) ở Paracels, chớp thời cơ Pháp không có quân ở đó. Chính phủ Pháp phản đối chính thức và gửi một đội quân ra đảo Pattle (Hoàng Sa) ở Paracels.

Trung Hoa Dân Quốc phản đối và hai bên gặp nhau ở Paris từ 25 tháng 2 to 4 tháng 7, 1947.  Chính phủ Trung Quốc từ chối đề nghị của Pháp đưa vấn đề ra cơ quan tài phán. Vào 1 tháng 12, 1947, Tưởng Giới Thạch ký nghị định đặt tên hai quần đảo bằng tiếng Hoa.[181]

1/10/1949

Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc được thiếp lập ở lục địa.

Tháng 4/1950

Tưởng Giới Thạch rút quân khỏi đảo Woody (Phú Lâm). Trung Quốc (từ đây dùng để gọi Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc) gửi quân thay thế.[182]

1950

Việt Nam tiếp nhận lại từ Pháp chủ quyền trên các đảo trong khu Lưỡi Liềm (Crescent) ở Paracel (không phải các đảo ở Trường Sa vì lúc đó không còn quân Pháp).

Chính phủ Pháp không có ý định trao lại cho Việt Nam chủ quyền ở Trường Sa. Quân đội miền Nam tự ra chiếm khi Pháp rút lui.[183]

Mãi đến 1956 mới tiếp nhận đảo Pattle (Hoàng Sa) ở Paracels.[184]  Hoàng thân Bửu Lộc, chef de cabinet của chính phủ Bảo Đại, chính thức xác định chủ quyền Việt Nam trên quần đảo  Paracels.[185]

15/8/1951

Trung Quốc, qua Ngoại trưởng Chu Ân Lai tuyên bố ngày 15 tháng 8, 1951 cùng lúc có bản nháp Hòa ước với Nhật là 'Paracels và Spratlys đã luôn luôn là lãnh thổ Trung Quốc.[186] Cần hiểu rằng Trung Quốc và Liên Xô có lẽ đã thông đồng hợp tác với nhau trong việc tuyên bố này. Gần một tháng sau đó, Liên Xô đề nghị trong Hội nghị San Francisco là Nhật giao hai quần đảo cho Trung Quốc. (coi đoạn dưới).

8/ 9/1951

Hòa ước San Francisco[187] ký giữa Nhật và đồng minh nhằm chất dứt Chiến tranh Thế giới Lần 2 nói rõ: “Nhật từ bỏ mọi quyền và yêu sách đối với Spratlys và Paracels.”

Hoàn toàn không có nghị quyết nào giao các quần đảo trên cho nước nào ở Hội nghị này.

Hội nghị bỏ phiếu chống (48 trên 3) đề nghị 13 điểm sửa đổi của Liên Xô trong đó có điểm đòi hỏi Nhật trao lại  Paracels và Spratlys cho Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Lý do dễ hiểu là hai nước đều là cộng sản.[188]

Cả hai phe quốc cộng của Trung Quốc đều không tham dự hội nghị. 

Ngày 7 tháng 9 1951 tại hội nghị này, phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa do Thủ tướng Trần Văn Hữu cầm đầu tuyên bố chủ quyền hai quần đảo Paracels và Spratlys. Không ai phản đối. 

8/9/1951

Nhật chính thức từ bỏ chủ quyền trên đảo theo Hòa ước San Francisco.

Tháng tư/1952

Ký Hòa ước giữa Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) và Nhật ngày 28 tháng 4, 1952.[189]

Trong Hòa ước này hoàn toàn không nói gì tới việc Nhật trao hai quần đảo Paracels và Spratlys cho Đài Loan.

Trung Quốc cho rằng Mỹ ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc ở hai quần đảo trên và viết như nguyên văn tiếng Anh như sau: “the United States recognized China’s sovereignty over the Nansha Islands [Spratlys] in a series of subsequent international conferences and international practice.” [190] 

Mỹ đã nói rằng Mỹ hoàn toàn không có quan điểm đúng sai về pháp lý liên quan đến các tranh chấp. Nguyên văn   "The US would view with serious concern any maritime claim or restriction on maritime activity in the South China Sea that was not consistent with international law." (US State Department, 10 tháng 5, 1995).[191] 

24/3/1953

Trung Quốc thành lập Công quản Paracels, Spratlys, và Trung Sa, thiết lập một bộ phận hành chính trên đảo Woody (Phú Lâm) thuộc tỉnh Quảng Đông, và từ 1984 thuộc tỉnh Hải Nam. 

1954

Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ vào tháng 5, 1954.  Hiệp định Geneva ký ngày 27 tháng 4, 1954 quyết định Pháp và đồng minh Việt Nam tập trung ở phía Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và bộ đội ở Nam tập trung ra miền Bắc, và một cuộc bầu cử tự do sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956 để thống nhất đất nước.

1955

Tháng 11, 1955 Pháp gửi một phái đoàn ra đảo Woody (Phú Lâm) để sửa soạn đổ quân. Tháng 12, Trung Quốc chiếm đảo Woody và toàn khu Amphitrite (An Vĩnh) ở quần đảo Paracels. Đài Loan trước đó chiếm đóng đảo này nhưng đã rút quân.[192]

 Từ tháng 4/1956

Tháng 4, 1956, Pháp rút quân khỏi Đông Dương. Pháp chính thức giao lại Paracels (Hoàng Sa) nhưng không giao lại Spratlys (Trường Sa). Quân đội Việt Nam Cộng hòa thay thế quân Pháp ở Paracels, thực chất là đảo Pattle (Hoàng Sa).

22 tháng 8, Quân đội Việt Nam Cộng hòa  đem quân chiếm một số đảo ở Spratlys (Trường Sa) và sát nhập vào tỉnh Phước Tuy. [193],[194]

15/5/1956

Tomas Cloma, một công dân Phillippines tuyên bố khám phá (discover) ra Spratleys (Trường Sa) và đặt tên là Đất Tự do (Freedomland  hoặc tiếng Phi Kalayaan).  Đại biện Pháp ở Manila phản đối và nhắc nhở chính phủ Phi là Pháp có chủ quyền ở đó từ 1933. Nam Việt Nam và Đài Loan cũng phản đối. [195]

Tháng 10, 1956, Đài Loan đuổi Thomas Cloma khỏi đảo Itu Aba.

4/9/1958

Trung Quốc tuyên bố yêu sách Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa) và hải phận 12 hải lý trong Tuyên bố của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) về lãnh hải:[196]  “Bề ngàng của lãnh hải của CHNDTQ là 12 hải lý, bao gồm các đất liền và các đảo ngoài bờ, Đài Loan (cách biệt đất liền và đảo ngoài bờ là biển khơi [tức là biển quốc tế]), các đảo xung quanh, quần đảo Penghu, Đông Sa, Tây Sa [Paracels], Trung Sa, Nam Sa [Spratlys]  và cách đảo khác thuộc TrungQuốc.”

Thủ tướng  Phạm Văn Đồng, của Bắc Việt Nam, gửi công hàm cho Chu Ân Lai, tuyên bố nguyên văn như sau:

Thưa đồng chí Tổng lý

      Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

      Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.

      Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng.

 Chính phủ Trung Quốc cho rằng qua thư này, Việt Nam chấp nhận chủ quyền ở hai khu đảo. Điều này đáng tranh luận vì (1) Phạm Văn Đồng (PVĐ) lúc đó không đại diện miền Nam vì hai khu đảo trực thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa nên dù có ủng hộ chủ quyền Trung Quốc thì tuyên bố này không có giá trị về mặt pháp lý; (2) Cả chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam, đều phản đối yêu sách của Trung Quốc); (3) Tuyên bố của PVĐ cũng rất mơ hồ vì Bắc Việt Nam chỉ nói ủng hộ hải phận 12 hải lý, chứ không nhắc đến hai quần đảo Paracels và Spratlys; và (4) Bắc Việt Nam là nước đang đương đầu với chiến tranh, lại dựa vào viện trợ của Trung Quốc do đó không thể phản đối dù muốn, do đó cắt nghĩa là PVĐ ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc là không công bằng.[197]

13/5/1969

Báo Nhân Dân, xuất bản thông tin sau:

Ngày 10 tháng 5, một máy bay quân sự Mỹ xâm phạm vào không phận Trung Quốc, trên  Yong Xing và Dong dao, hai trong các đảo ở Tây Sa [Paracels], trong tỉnh Quảng Đông [dịch lại từ tiếng Anh].[198]

Tin này và tuyên bố của PVĐ năm 1958 nói ở trên đã được Trung Quốc sử dụng nhằm chứng minh Việt Nam đã từ bỏ chủ quyền ở Paracels và Spratlys. Tuy nhiên, Monique Chemillier-Gendreau, cho rằng “Trong tình thế như thế, bất cứ một tuyên bố nào của chính quyền Bắc Việt đều không có giá trị với vấn đề chủ quyền. Đây không phải là chính phủ có quyền lực pháp lý lãnh thổ đối với các đảo trên. Không ai có thể từ bỏ quyền mà mình không có. [199]  Thực tế là lúc đó chính phủ Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam) quản lý Trường Sa và khu Lưỡi Liềm (Crescent) của Paracels, như đã từng được nhà Nguyễn và Pháp kiểm soát trước đó. Hơn nữa chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (được miền Bắc ủng hộ) đã phản đối việc Trung Quốc chiếm đóng vùng Lưỡi Liềm của Việt Nam Cộng Hòa năm 1974.[200] 

10/7/1971

Chính phủ Philippine tuyên bố ngày 10 tháng 7 năm 1971 là đã gửi công hàm cho Đài Loan yêu cầu rút quân ra khỏi đảo Itua Aba (ở Trường Sa). Philippines yêu sách 53 đảo, đá kể các đảo Spratly, Itu Aba, Pag-asa, Nam Yit Islands, West York Island, North Danger Reef, Mariveles Reef và Investigator Shoal.

Có hai lý do đưa ra: (1) đây là vùng đất vô chủ (terra nullius) vào thời điểm chiếm đóng là năm 1930 và (2) sau khi Nhật đầu hàng, từ bỏ chủ quyền sau Hòa ước San Francisco năm 1951 mà không xác định rõ ai được hưởng quyền thừa kế, do đó các đảo này bỏ trống, cho phép chiếm đóng. Vào tháng 4 năm 1972, chính phủ Philippines sát nhập khu "Kalayaan" vào tỉnh Palawan. [201]

27/2/1972

Thông cáo Thượng Hải ký kết giữa Mỹ và Trung Quốc, ủng hộ chính sách một nước Trung Quốc và tạo cơ sở cho việc thiết lập bang giao giữa hai nước vào 1 tháng 1 năm 1979.

Vào 25 tháng 10 năm 1971, Chính phủ Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc thay thế chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) ở ghế thường trực Hội đồng Bảo an tại Liên Hợp Quốc.

19/1/1974

 Trung Quốc tấn công và chiếm khu Lưỡi Liềm (Crescent) ở Paracels từ quân lực Việt Nam Cộng hòa và sát nhập vào tỉnh Quảng Đông( từ 13 tháng 4, 1988 thí sát nhập vào tỉnh Hải Nam). 

Việt Nam Cộng hòa (VNCH) lên án mạnh mẽ Trung Quốc. Vào ngày 20 tháng 1, 1974,  Quan sát viên của VNCH yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc xem xét cuộc xâm lăng bằng bạo lực này. Hội đồng Bảo an không có hành động gì.

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (miền Bắc) vì nhận viện trợ của Trung Quốc vẫn im lặng.

Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra tuyên cáo như sau: "Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc. Trong vấn đề biên giới lãnh thổ, các nước láng giềng thường có sự tranh chấp do lịch sử để lại, có khi rất phức tạp, cần được nghiên cứu. Trước sự phức tạp của vấn đề, các nước có liên quan cần xem xét vấn đề này theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt, và giải quyết bằng thương lượng."[202]

14/2/1975

Bộ Ngoại giao Việt Nam ra sách trắng khẳng định chủ quyền trên Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa).

30/4/1975

Việt Nam Cộng hòa bại trận.

5-6/5/1975

Hải quân của chính quyền mới ra Trường Sa thay thế quân Việt Nam Cộng Hòa ở Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa).

Tháng 9/1975

10 tháng 9, 1975, Trung Quốc gửi công hàm ngoại giao cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt) nhắc nhở chủ quyền của Trung Quốc ở Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa).[203]

Ngày 29 tháng 9, 1975, Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Phó Thủ tướng, nói với đoàn ngoại giao ở Bắc Kinh là “ Paracels và Spratlys sẽ là vấn đề cần thảo luận trong tương lai.” [204]

2/7/1976

Việt Nam thống nhất.  Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời.

12/5/1977

Việt Nam ra tuyên cáo về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đường cơ sở được công bố sau đó vào 12 tháng 11, 1982. Đường cơ sở cho hai khu quần đảo Paracels và Spratlys sẽ được định sau.[205]  

2/3/1978

Philippines chiếm đảo Lankian Cay ở  Spratlys (Trường Sa).

7/1/1979

Cuối năm 1978 Việt Nam tiến chiếm Cambodia, lấy Phnom Penh vào ngày 7 tháng giêng 1979.

15/2/1979

Trung Quốc tấn công qua biên giới Bắc Việt Nam với đội quân 200,000 troops, nhằm “dạy cho Việt Nam một bài học”. 

2/5/1979

Ký hợp đồng 25 năm cho Liên Xô thuê cảng quân sự Cam Ranh tới năm 2002[206].

21/12/1979

Malaysia chiếm đảo Swallow Reef (Terumbu Layang).  Malaysia xuất bản bản đồ về thềm lục địa bao gồm 12 đảo ở Spratly thuộc bang Sabah.

Cuối năm 1982

Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, trong chuyến thăm Indonesia cuối năm 1982, tỏ ra hòa dịu khi nói về yêu sách cạnh tranh nhóm đảo Natuna giữa Việt Nam và Indonesia, và vào năm 1984 ở Hà Nội cũng tỏ cùng cử chỉ hòa dịu với Malaysia nhằm giải quyết tranh chấp về Amboyna Cay. Malaysia và Vietnam đã giải quyết thành công khác biệt và đã nộp chung một yêu sách có phân chia thềm lục địa ngày 6 tháng 5 2009 cho Ủy Ban Liên Hợp Quốc về hạn định thềm lục địa.

1983

Malaysia yêu sách Swallow Reef (Layang Layang) và Amboyna Cay được sát nhập vào bang Sabah.

1984

Brunei thiết lập vùng đặc quyền đanch cá bao gồm đá nổi Louisa Reef.

1985 đến tháng 12/ 1991

Liên Xô ngày càng yếu sau khi Mikhail Gorbachev thắng cử vào tháng 3, 1985 và hoàn toàn tan rã vào tháng 12, 1991. 

Tháng 2/1988

Trung Quốc gửi lực lượng hải quân ra Spratlys (Trường Sa) nhằm biểu dương lực lượng.

Tháng 3/1988

Trung Quốc tiến chiếm đá Johnson South Reef ở Spratlys của Việt Nam. Việt Nam giữ được đá Johnson North Reef và đá Lansdowne Reef. Về phía Việt Nam, chết 3 người, bị thương 11 người với 61 người mất tích. Trung Quốc trả 9 tù binh và 61 mất tích coi như mất.   Trung Quốc thông báo chết 6 người và bị thương 21 người.[207]

Tháng 5/1989

Trung Quốc đàn áp cuộc biểu tình ở Thiên An Môn bằng quân đội. Trung Quốc bị khắp nơi lên án và liên hệ ngoại giao bình thường với nước khác đóng băng, thương mại võ khí đình chỉ.

1990

Indonesia tổ chức lần đầu các buổi gặp gỡ không chính thức hàng năm được gọi là South China Sea Workshop gồm 6 nước có yêu sách Spratlys Islands; các cuộc họp kéo dài trong khoảng thời gian 1990-2001. Hoạt động này do Canadian International Development Agency (CIDA) tài trợ.

25/2/1992

Trung Quốc chính thức công bố Luật về lãnh hải và vùng tiếp nối trong đó Paracels và Spratlys được coi là lãnh thổ Trung Quốc (Điều 2).[208]

Tháng 5/1992

Tháng 5, 1992, công ty dầu lửa quốc doanh Trung Quốc China National Offshore Oil Corporation (CNOOC) và Crestone Energy (công ty Mỹ có trụ sở ở Denver bang Colorado) ký hợp đồng thăm dò chung ở khu Wan’an Bei-21 block, rộng 25,155 km² ở Spratlys. Hợp đồng này được kéo dài thêm năm 1999 sau khi Crestone chưa hoàn thành thăm dò.[209]

Tháng 4, 1992, Việt Nam  phản đối và tuyên bố rằng khu thăm dò nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chồng lần với 133 và 134 của Việt Nam, nơi mà  PetroVietnam, và ConocoPhillips Vietnam Exploration & Production, một đơn vị của ConocoPhillips hợp tác.

Tháng 5/1993

Tuyên bố bầu cử tự do ở Cam Bốt sau khi quân đội Việt Nam rút khỏi đó, mở đường cho việc bình thường hóa liên hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước khác.

Tháng 10/1994

Tờ Far Eastern Economic Review (13 tháng 10 1994) đưa tin một tàu Trung Quốc đo đạc địa chấn cho công ty Crestone đã phải rút lui sau khi bị hải quân Việt Nam thách thức.

Tháng 11/1994

Công ty Mỹ Exxon ký hợp đồng 35 tỷ US với Indonesia nhằm khai thác các giếng khí ở bắc đảo Natuna. Trung Quốc có yêu sách một phần khu này.

Tháng 2/1995

Trung Quốc chiếm đá Mischief Reef của Phi.  Nhóm thủy thủ đánh cá Trung Quốc bị lực lượng quân sự Phi đẩy ra vào 20-28 tháng 3, 1995.

11/7/1995

Bình thường hóa ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ.

28/7/1995

Việt Nam trở thành thành viên của Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN).

4/11/2002

ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố về Hành vi của Các bên ở Biển Nam Trung Hoa." Tuyên bố này có sự cam kết tự nguyện của các bên không sử dụng vũ lực ở Biển ĐNA.

2007

Hợp doanh giữa Petrovietnam và các đơn vị của BP và Exxon Mobil nhằm khai thác khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trung Quốc phản đối. Công việc tiếp tục tiến hàn vào tháng 7, 2008, Trung Quốc lại phản đối. [210]

6 /5/2009

Malaysia và Vietnam giải quyết khác biệt và nộp đơn chung cho Ủy ban Liên Hợp Quốc về Hạn định Thềm Lục địa. Trung Quốc phản đối. 

7/ 5/2009

Trung Quốc nộp cho Ủy ban Liên Hợp Quốc về Hạn định Thềm Lục địa bản đồ yêu sách biển trong đường chữ U chín đoạn gãy (Việt Nam gọi là đường lưỡi bò). Có bản đồ kèm theo nhưng không có tọa độ chỉ rõ khu vực Trung Quốc yêu sách. Việt Nam và Malaya phản đối.

8/7/2010

Indonesia chính thức gửi Ủy ban Liên Hợp Quốc về Hạn định Thềm Lục phản đối đường chữ U chín đoạn gãy của Trung Quốc, coi nó là vi phạm Luật Biển LHQ và đi ngược lại tuyên bố của Trung Quốc trước đây.

 

Chú thích

[1] Khu Trường Sa có chiều đông tây và nam bắc kéo dài ít nhất là 800 km.

[2] Monique Chemillier-Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, trang 184-186. Và Từ Đặng Minh Thu, Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Thời Đại Mới, (oneline journal published from USA), No. 11, July 2007.

[3] Monique Chemillier-Gendreau, đd, trang 122.

[4] Coi Coi James William Morley, The Soviet-Japanese Peace Declaration, Political Science Quarterly, Summer 1957.

[5] China Warns U.S. to Stay Out of Islands Dispute,http://www.nytimes.com/2010/07/27/world/asia/27china.html?_r=1

[6] Stein TONNESSON, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies 40, I (2006), tr. 3 và 6. Cám ơn anh Nguyễn Ngọc Giao nhắc lại sự kiện này.

[7] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 114 và Annex 30.

[8] Daniel J. Dzurek, The Spratly Islands Dispute: Who's On First? 1996: International Boundaries Research Unit, University of Durham, UK.

[9]  Yves Lacoste đề nghị đặt tên lại trong “Les deux Méditerranées”, Hérodote, Revue de géographie et de géopolitique, no. 27, 1982, p. 5. 

[10] T Clive Schofield and Ian Storey, The South China Sea Dispute: Increasing Stakes and Rising Tensions, Jamestown Foundation, November 2009, p. 7-8.  

[11] Có 3 loại bản đồ các học giả Trung Quốc thường vẽ trong quá khứ. Loại thứ nhất là bản đồ Trung Quốc,  phản ánh cương vực thực của Trung quốc thí dụ bản đồ Đại Thanh Nhất thống Toàn đồ. Loại hai là như Thanh bản Thiên hạ Toàn đố, phản ánh cả vùng mà Trung Quốc coi là vùng ảnh hưởng hay phiên thuộc của mình. Và cuối cùng là loại ba ghi lại các cuộc thám hiểm của người Trung Quốc.  

[12] Đây là một trong những lập luận chính của Tonnesson. Coi Stein Tonnesson, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies, vol. 40, no. 1, 2006. 

[13] Coi: The Issue of South China Sea, Ministry of Foreign Affairs People's Republic of China June 2000, trên mạng của Federation of American Scientist: http://www.fas.org/news/china/2000/china-000600.htm. Đoạn trên cũng có trên: http://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3754/t19233.htm

[14] Hội nghị phủ quyết với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận đề nghị của Liên Xô với 13 chỗ bổ sung, 1 trong những điều bổ sung là Nhật phải trao trả Hoàng Sa và Trường Sa (Paracels and the Spratlys) cho Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Coi James William Morley, The Soviet-Japanese Peace Declaration, Political Science Quarterly, Summer 1957.

[15] International Recognition Of China's Sovereignty over the Nansha Islands. http://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3754/t19232.htm

[16] Stein Tonnesson, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies, vol. 40, no. 1, 2006, p. 47.

[17] Điều trần của Phụ tá Thứ trưởng Quốc phòng (Deputy Assistant Secretary of Defense) Robert Scher trước Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương, Ban Ngoại giao, Thượng viện Mỹ, 15 tháng 6 năm 2007.

[18] Điều trần của Phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao Scot Marciel trước Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương, Ban Ngoại giao, Thượng viện Mỹ, 15 tháng 6 năm 2007.

[19] Coi Peter Kien-Hong Yu, “The Chinese (Broken) U-shaped line in the South China Sea: Points, Lines and Zones”, Current Southeast Asia, vol 25, no. 3, 2003. trang 407.   Về đường chữ U có 9 điểm gãy do Bai Meichu , một viên chức của Cộng Hòa Dân quốc Trung Hoa (bây giờ là Đài Loan) tự nghĩ ra năm 1947, Yu viết: “Rất có thể là anh ta bị thúc đẩy bới bản năng  chiếm hữu từ đáy lòng như ngạn ngữ đã nói, ý tưởng đã là 9 phần mười của luật). Thật vậy, Bai thấy Pháp chiềm hữu (từ tháng 7 năm 1933 6 đảo ở Nam Sa (hay Spratly) và đã nói hay có thể coi là tự cảm thấy bằng cách nào đấy phải bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc.”  

[20] Carl Thayer, Security Challenges, Vol. 6, No. 2 (Winter 2010), pp. 69-84.

[21] China Warns U.S. to Stay Out of Islands Dispute,http://www.nytimes.com/2010/07/27/world/asia/27china.html?_r=1

[22] Wu Zhong, A Daring Departure from Dang, Asia Times 6 August 2010.  http://www.atimes.com/atimes/China/LH06Ad02.html

 

[23] U.S. Challenges China on Island Chain. http://www.nytimes.com/2010/07/24/world/asia/24diplo.html?hp

[24] Roiling the South China Sea. http://search.japantimes.co.jp/cgi-bin/ed20100805a1.html

[25] Clinton stand on a Chinese 'core interest' causes tension at forum,  South China Morning Post July 24, 2010. http://www.viet-studies.info/kinhte/clinton_and_chinese_core_interest.htm

[26] Coi http://www.aseansec.org/13163.htm

[27] Coi Jess Diaz , DFA bucks House bill on RP Spratly claim, Philippine Star, 13 Tháng 3 năm 2008

[28] Coi báo cáo toàn diện về tăng cường quân sự của Trung Quốc của Richard Fisher, Jr. The Implications of China’s Naval Modernization for the United States, Testimony before the U.S. –China Economic and Security Review Commission, 11 tháng 6 năm 2009. http://www.strategycenter.net/research/pubID.199/pub_detail.asp.

[29] Điều này được Keating, Đô đốc Hải quân Mỹ xác nhận, coi “Asia-Pacific U.S. Military Overview”, http://2002-2009-fpc.state.gov/113312.htm. 

[30] Điều trần của Phó Giáo sư Peter Dutton, Viện China Maritime Studies Institute, U.S. Naval War College  trước Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương, Ban Ngoại giao, Thượng viện Mỹ, 15 tháng 7 năm 2009.

[31] Coi Đô đốc Keating ở trên.

[32] Tháng 7 năm 1977, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Huang Hua xác định lại rằng chủ quyền Trung Quốc ở Biển Nam Trung Hoa là điều “không thể thương lượng”: “cương vực Trung Quốc kéo dài tới tận bãi cạnJames Shoals, gần Borneo của Mã lai…Tôi nhớ là khi còn nhỏ đi học, tôi đã đọc về những đảo này trong sách địa lý. Lúc đó, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai nói là nó không thuộc Trung Quốc…Người Việt cho rằng họ có chủ quyền ở đó.Cứ để họ nói kiểu đó. Nhiều lần họ đề nghị ta thương thuyết nhưng ta luôn luôn từ chối…Về chủ quyển những hòn đảo, chúng ta có bằng chứng lịch sử có thể kiểm tra. Không cần gì thương thuyết vì chúng thuộc Trung Quốc.” (Beijing Review, 22 tháng 7 năm 1977).

[33] Coi The Issue of South China Sea,đd;  và “China reiterates sovereignty in South China Sea”, China Daily, 30 tháng giêng năm 2010 trên http://www.chinadaily.com.cn/china/2009-02/03/content_7442878.htm

[34] Marwyn S. Samuels, Contest for the South China Sea, 1982, Methuen: New York and London. 

[35] Stein Tonnesson, “The South China Sea in the Age of European Decline”, Modern Asian Studies, vol. 40, no. 1, 2006.

[36] Tập San Sử địa, số 27 and 28, Sàigòn, 1974.

[37] Nguyễn Nhã, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia tp Hố Chí Minh, trên http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2468.

[38] Hồ Bạch Thảo, “Tây Sa [Hoàng Sa], Nam Sa [Trường Sa] có được nói đến như là đất Trung Quốc trong Thanh Sử Cảo và Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ không?” Thời Đại Mới, (oneline journal published from USA), no. 18, March 2010. http://www.tapchithoidai.org/.

[39] Monique Chemillier-Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000.

[40] Từ Đặng Minh Thu, “Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa”, Thời Đại Mới, (Báo mạng ở Mỹ, số 11, tháng 7 năm 2007.

[41] Brice M. Clagett, “Competing Claims of Vietnam and China in the Vanguard Bank and the Blue Dragon Areas of the South China Sea”Journal Oil and Gas Law & Taxation Review, vol. 13 ,issue 10 tháng 10 năm 1995  và  vol. 13,  issue 11 tháng 11 năm1995.

[42] Brice M. Clagett, đd. issue 11.  

[43] Luận điểm về vùng nước lịch sử,và sự thiếu nhất quán giữa tuyên bố của Trung Quốc về đường chữ U và chính Luật biển Trung Quốc cũng như Luật Biển LHQ có thể xem  Brice M. Clagett, issue 11, đd.

[44] Eveil economique de l’Indochine, no. 741, trích từ (phụ lục 5 trong sách của Monique Chemillier-Gendreau). Câu này nguyên ủy từ lá thư ngày 20.3.1930 của Toàn quyền Đông Dương (Pasquier) gửi Bộ trưởng Bộ thuộc địa.

[45] The Issue of South China Sea, Ministry of Foreign Affairs People's Republic of China June 2000. Posted on the website of Federation of American Scientist: http://www.fas.org/news/china/2000/china-000600.htm

[46] Những tài liệu này không còn trên mạng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc mà địa chỉ đã được ghi trong bài của Jian Ming Shen, “China’s sovereignty over the South China Islands: a historical perspective”,  Chinese Journal of International Law, vol. 1, no. 1, trang 95, ở chú thích 6, là:  http://www.fmprc.gov.cn/eng/5997.html. Tuy nhiên những tài liệu này vẫn còn trên mạng của Liên đoàn các nhà khoa học: http://www.fas.org/news/china/2000/china-000600.htm

[47] Monique Chemillier-Gendreau, đd, trang 57.

[48] Án lệ Aves Islands case. Award of 30 June 1865 between the Netherlands and Venezuela, A. de la Pradelle and N. Politis, Historical Note, Recueil des Arbitrages Intemationaux, vol. II, pp. 417-418. Cũng nên coi  Beatrice Orent and Patricia Reinsch, 'Sovereignty over Islands in the Pacific', American Journal of International Law, 1941, trang. 443.

[49] Monique Chemillier-Gendreau, đd, trang 51. 

[50] Permanent Court of International Justice, Advisory Opinion regarding Eastern Greenland, ICJ Reports 1933, tr. 45 {territory disputed between Denmark and Norway), quoted from Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 50. 

[51] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 52.

[52] Marwyn S. Samuels, đd, tr. 17.

[53] Samuels, đd, tr. 21.

[54] Samuels, đd, tr. 23.

[55] Samuels, đd, tr. 53.

[56] Coi Teh-Kuang Chang, “China's claim of sovereignty over Spratly and Paracel Islands: A historical and legal perspective”, Case Western Reserve Journal of International Law; Summer 91, Vol. 23 Issue 3.

[57] Tiêu biểu ta có thể đọc Jian Ming Shen, (1) “Territorial aspects of the growth of South China Sea disputes” trong sách Security Flashpoints: Oil Island, Sea Access and Military Confrontation do  Myron H. Norquist và John Norton Moore chủ biên, The Hague, Boston: Nijhoff, 1988. (2) Cùng tác giả, “China’s sovereignty over the South China Islands: a historical perspective”, Chinese Journal of International Law, vol. 1, no. 1, 2002.

[59]  Có thể đọc những bài sau của Giáo sư Richard J. Smith về truyền thống vẽ bản đồ Trung Quốc, (1) Mapping China's World: Cultural Cartography in Late Imperial Times, 2006,  http://www.ruf.rice.edu/~asia/CartographyPaper.html;  (2)   Mapping China's World: Cultural Cartography in Late Imperial Times, 2009, http://www.kunstpedia.com/articles/532/1/Mapping-Chinas-World--Cultural-Cartography-in-Late-Imperial-Times/Page1.html

[60] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 59. 

[61]Trích từi Beatrice Orent and Patricia Reinsch, 'Sovereignty over Islands in the Pacific' (1941) American Journal of International Law,tr. 443.. Trích dân này là lấy từ Chemillier-Gendreau,đd, tr. 53.

[62] Hồ Bạch Thảo, “Lãnh hải Trung Quốc dưới thời nhà Minh,” Diễn Đàn (an online Vietnamese journal published in France, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/lanh-hai-trung-quoc-duoi-thoi-nha-minh/?searchterm=h%E1%BB%93%20b%E1%BA%A1ch%20th%E1%BA%A3o

[63] China-America Digital Academic Library, http://www.archive.org/details/06059660.cn

[64] Nguyễn Quang Ngọc, Các quần đảo giữa Biển Đông: lịch sử một thật thế kỷ chuyển đổi, Unpublsihed paper presented in a conference organized by the Học Viện Ngoại giao Việt Nam (Vietnam Institute of Foreign Affairs, Hà Nội, 2009.

[65] Hồ Bạch Thảo, Tiếp nối rà soát cái gọi là Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) trong Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, Diễn Đàn, Dec. 2009.  http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/tiep-noi-chuyen-hoang-sa-va-truong-sa-ra-soat-trong-111ai-thanh-nhat-thong-toan-111o/?searchterm=h%E1%BB%93%20b%E1%BA%A1ch%20th%E1%BA%A3o

[68] Phạm Hoàng Quân, Tia Sáng ngày 9 tháng 4 năm 2009.

[69] http://www.mofa.gov.vn/vi/tt_baochi/pbnfn/ns061228154243?b_start:int=5#Cdp8TkSzRrHx

[70] Đại Nam là tên hiệu nước Việt Nam do vua Minh Mạng đặt năm 1838. Coi Nguyễn Nhã, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia tp Hồ chí Minh,  trên mạng http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2468 (đoạn 2.1.1).

[71] Nguyễn Nhã, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia tp Hồ chí Minh,  trên mạng http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2468 (đoạn 2.1.1).

[72] Võ Long Tê, “Phương diện địa danh học của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, Tập San Sử địa, số 27 and 28, Sàigòn, 1974, tr. 214.  

[73] Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư  trong Hồng Đưc Bản Đồ hay Toàn Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ Bản Đồ (Viện Hán Nôm  Hà Nội, ký hiệu A2628)  do Đỗ Bá Công Đạo viết năm 1686. Coi Nguyễn Nhã, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, đoạn 1.1.1.

[74] Hoàng Xuân Hãn, Thử đặt ‘vấn đề Hoàng Sa’, Tập San Sử địa, đd, tr.10.

[76] Bản đồ được in trong J. L Taberd, Dictionarium Anamitico Latinum,  xuất bản 1838, bởi J. Marshnam, in Serampore (Bengale)  và được sao chụp lại trong sách cùng tên, NXB Văn Hòa vàn Trung Tâm Nghiên cứu Quốc học, 2004, Việt Nam. 

[77] Sơn Hồng Đức, “Thử khảo sát về Quần đảo Hoàng Sa”, Tập San Sử địa, đd, tr.186. 

[78] Nguyễn Q. Thắng, Hoàng Sa Trường Sa, nxb Tri Thức, Sàigòn 2008, tr.  27-31. 

[79] Sơn Hồng Đức, đd, tr. 190.

[80] Võ Long Tê, “Phương diện địa danh học của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, Tập San Sử địa, số 27 and 28, Sàigòn, 1974, tr. 215. 

[81] Từ Đặng Minh Thu, đd, xem bản đồ số 2.

[82] Chi tiết về chữ Hán và luận điểm giải thích, có thể đọc Từ Đặng Minh Thu, Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Thời Đại Mới, (oneline journal published from USA), No. 11, July 2007. 

[83] Võ Long Tê, “Phương diện địa danh học của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, Tập San Sử địa, số 27 and 28, Sàigòn, 1974 tr. 213-214. 

[84] Chemillier Gendreau, đd, tr. 53.

[85] Coi Stein Tonnesson, sách đã dẫn.

[86] Coi, Chemillier Gendreau, đd, Chương II, tr. 69.

[87] International Court of Justice, Advisory Opinion concerning Western Sahara, ICJ Reports 1975, tr. 43.

[88] Stein Tonnesson, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies, vol. 40, no. 1, 2006,  tr. 22. 

[89]  Stein Tonnesson, đd, tr. 7, footnote 14.

[90] Suy luận này là của Nguyễn Tuân, người giúp ý kiến và phân tích cho tác giả.

[91] Coi thêm chú thích số 68.

[92] Monique Chemillier-Gendreau, Appendix 8, tr.180-182.

[93] http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_taiwan

[94] Phạm Hoàng Quân, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Sở Khoa học và công nghệ Thừa Thiên Huế, Số 4 (69), 2008.  

[95] Coi thư trong Chemillier Gendreau, đd, Annex 10, tr. 184-186.

[96] Từ Đặng Minh Thu, đd, đoạn 2.

[97] Marwyn Samuels, Contest for the South China Sea, New York/London, 1982, p. 55-60. Phải đến năm 1949 Trung Hoa Dân quốc bỏ đất liền chạy ra Đài loan mới lấy lại được và Nhật chỉ chính thức giao lại năm 1952.

[98] Economie de L'Indochine 19 Mai 1929,
http://hoangsa.org/forum/downloads/63868-N5561322_PDF_1_-1EM.pdf

[99] L’evel de l’ IndoChine, (l’evel Economique de l’Indochine),  Hanoi, Vietnam, No. 739, 29 Mai 1932. Bài báo viết như sau: « Pourtant l’occupation de ces iles sur lesquelles l’Annam a des droits certains, aurait pour l’Indochine des avantages tels que l’attitude du Ministère ou du Gouvernement général est vraiment incompreshensive.»     « l’on pourrait de tirer au moins de quoi faire les frais d’un phase, observatoire, avec T.S.F., phares secondaires, bouées et balises,  etc. »     It could raise at least enough money for a lighthouse, an observatory, with wireless, high lights, buoys and beacons, etc. " Có thể đọc trên: http://hoangsa.org/forum/downloads/42660-Woody_Meteo_1932.pdf .

[100] L’Eveil de l’Indochine, Hanoi, Vietnam, No. 788, 22 Mai 1932

[101] Monique Chemillier-Gendreau, p. 37.

[102] Ibid, p. 38.

[104] Hàn Chấn Hoa chủ biên  Tổng hợp các đảo Hải Nam của nước ta[104] trong phần « Văn vật khảo cổ quần đảo Tây sa » có đoạn viết về đảo Woody (Việt nam gọi là Phú Lâm, Trung Quốc là Vĩnh Hưng) như sau :

Trên đảo Vĩnh Hưng hiện nay còn có 2 ngôi miếu mà ngư dân tự xây dựng nên: miếu ở mặt Nam gọi là “Cô hồn miếu”, miếu ở mặt Bắc gọi là “Hoàng Sa Tự”. Thời bấy giờ khoa học hàng hải còn chưa phát đạt, có ngư dân bỏ mình trên đường (ra đảo).

Không thể biết là Hoàng Sa tự xây lúc nào, nhưng có thể trước nàm 1938 khi Pháp gửi quân tới vì ở nếu không có người đánh cá Việt Nam tới đó trước thì khó có người đánh cá Việt nam tới đó sau năm 1938. Hai chữ Hoàng Sa chỉ có người Việt dùng.   

[105] Samuels, đd, tr. 62-63.

[106] Nguyễn Đình Đầu, Giới thiệu một số bản đồ cổ thềm lục địa, biển Đông và hải đảo Việt Nam,  http://hoithao.viet-studies.info/2010_NDDau.pdf.

[107] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 106.

[108] Samuels, p.61. Monique Chemillier-Gendreau, tr. 38.

[109] Stein Tonnesson, tr..8.

[110]Stein Tonnesson, tr.7, footnote 14.

[111] Nguyễn Nhã, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, đoạn 1.2.2.

[112] Nguyễn Nhã, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, đoạn 1.2.1.

[113] Monique Chemillier-Gendreau, đd,tr. 112.

[114] Claudius Madrolle,  Politique étrangère, Année 1939, Volume 4, Numéro 3 p. 302 – 312. Coi ở http://hoangsa.org/forum/downloads/45421-article_polit_0032-342x_1939_num_4_3_5631.pdf

[115] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 38-39.

[116] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 113.

[117]ức Hoàng Sa, Lao động ngày 14 tháng 7 năm 2003. http://www1.laodong.com.vn/pls/BLD/display$.htnoidung%2870,72503%29

[118] Tài liệu quân sự mật của Mỹ đã được giải mật. Coi từ trang 129 trở đi. http://issuu.com/hnsa/docs/ss-264_pargo_part2?mode=a_p

[119] 7 French Islands annexed by Japan, Naval push seen, New York Times, 1 April 1939.

[120] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 115.  

[121] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 116.

[122] Coi công hàm năm 1932 ở Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 184-186.

[123] Lần 1937 và 1947 đã được ghi trong Ghi nhớ nội bộ của Bộ Ngoại Giao Pháp ngày 25 tháng 5 năm 1950, coi Chemillier Gendreau, đd,  Annex 11, tr. 187.   Lần đầu 29 tháng 4 năm 1932 không được nói tới nhưng được nói tới trong Chemillier Gendreau, đd,  tr. 40.

[124] Stein TONNESSON, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies 40, I (2006), tr. 3 và 6. Cám ơn anh Nguyễn Ngọc Giao nhắc lại sự kiện này.

[125] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 114 và Annex 30.

[126] Daniel J. Dzurek, The Spratly Islands Dispute: Who's On First? 1996: International Boundaries Research Unit, University of Durham, UK.

[127] United Nations Convention on the Law of the Sea of 10 December 1982, http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm

[128] Brice M. Clagett, đd, coi Part I, the section on Criteria for Delimitation

[129] Brice M. Clagett, đd, coi Part II, table 2. 

[130] Marwyn S. Samuels, Contest for the South China Sea, 1982, p.52, Methuan: New York and London.

[131] Stein Tonnesson, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies, vol. 40, no. 1, 2006, tr.6.

[132] L. Eastman, Throne and Mandarins: China's Search for a Policy during the Sino-French Controversy (Stanford, 1984)

[133] Albert Billot, L’affaire du Tonkin: histoire diplomatique de l’établissement de notre protectorat sur l’Annam et de notre conflit avec la Chine, 1882–1885, par un diplomate, J. Hetzel et Cie, éditeurs, Paris, 1886.

[134] Lịch sử Việt Nam, Tập II, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội 1985.

[135] L. Eastman, Throne and Mandarins: China's Search for a Policy during the Sino-French Controversy (Stanford, 1984)

[136] The following authors have interpreted erroneously the 1887 Convention in their arguments (footnote 58, Từ Đặng Minh Thu, Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Thời Đại Mới, (oneline journal published from USA), No. 11, July 2007):

-  Hungdah Chiu & Choon-ho Park: Legal status of the Paracels and Spratly Islands, Ocean Development and International Law Journal, Vol. 3 (1975), p.  464 and 467.

-  Jian-Ming Shen: International law rules and historical evidence supporting China’s title to the South China Sea islands, Hastings International and Comparative Law Review, vol. 21 (1997), p. 119.

-  Tao Cheng, The dispute over the South China Sea Islands, Texas International Law Journal, vol. 10 (1975), p. 274.

-  John Chao: South China Sea: boundary problems relating to the Nansha and Xisha Islands, Chinese Yearbook of International Law, vol. 9 (1989-1990): p. 119.

-  Steve Kuan Tsy Yu, Who owns the Paracel and Spratlys? An evaluation of the nature and legal basis of the conflicting territorial claims, Chinese Yearbook of International Law, vol. 9 (1989-1990): p. 5, 7 and 8.

-  Choon-ho Park, The South China Sea dispute: Who owns the islands and the natural resources? Ocean Development and International Law Journal, vol. 5 (1978): p. 34.

-  Marwyn Samuels, Contest for the South China Sea, New York/London, 1982, tr. 52-53.

-  Brian Murphy, Dangerous ground: the Spratly Islands and international law, Ocean and Coastal Law Journal, vol. 1 (1994), tr. 201.

-  Elizabeth van De Wie, China and the Law of the Sea Convention, Follow the Sea, New York, 1995, tr. 52-53.

-  Michael Bennet, The PRC and the use of international law in the Spratly Islands dispute, Stanford Journal of International Law, vol. 28 (1992), tr. 446.

[137] Coi thêm lập luận này ở Từ Đặng Minh Thu, Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Thời Đại Mới, (oneline journal published from USA), No. 11, July 2007.

[138] Từ Đặng Minh Thu, Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Thời Đại Mới, (oneline journal published from USA), No. 11, July 2007.

[139] http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_taiwan

[140] Eveil economique de l’Indochine, no. 741, quoted from footnote 3, Từ Đặng Minh Thu, Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Thời Đại Mới, (oneline journal published from USA), No. 11, July 2007.

[141] Marwyn Samuels, Contest for the South China Sea, New York/London, 1982, tr. 53.

[142] Marwyn Samuels, đd, tr. 53.

[143] Monique Chemillier-Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, tr. 99-100.

[144] Marwyn Samuels, đd, tr. 53.

[145] Nt, đd, tr.  54.

[146] Nt., đd, tr. 72.

[147]Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 99.

[148] Nt, đd, tr.  37.

[149] Marwyn Samuels, đd, tr.  56.

[150] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr.. 37.

[151] Stein Tonnesson, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies, vol. 40, no. 1, 2006, tr.3.

[152] Marwyn Samuels, đd, tr.  55-56.

[153] Nt, đd, tr.  59.

[154] Nt, đd, tr.  59.

[155] Nt, đd, tr..61.

[156] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr.  37.

[157] Nt,  đd, tr. 38.

[158] Nt, đd, tr. 38.

[159] Stein Tonnesson, đd, tr. 8.

[160] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 114.

[161] Nt, Annex 30, Quyết định của Toàn quyền Đông Dương.

[162]Nguyễn Nhã, đd., coi đoạn 1.3.2, và 1.3.3.   http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2442

[163] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr.  111.

[164] Nt, đd, tr. 7, footnote 14.

[165] Nt, đd, tr. 124. Coi thêm báo cáo chính thức về việc này, tr. 243-244.

[166] Nt, đd, tr.  38-29.

[167] Nt, đd, tr.  96.

[168] Nt, đd, tr.  113.

[169] Nt, tr. đd, tr.  39. Cũng nên xem thêm tr. 254 về ngày xây hải đăng vào tháng 10 năm 1937 theo bản báo cáo chính thức.  

[170] Stein Tonnesson, đd, tr. 11.

[171] Stein Tonnesson, đd, tr. 10.

[172] Marwyn Samuels, đd, tr.  65.

[173] Monique Chemillier-Gendreau, tr. 39.

[174] Cairo Declaration. http://www.ndl.go.jp/constitution/e/shiryo/01/002_46/002_46tx.html.

[175]Potsdam Declaration. http://www.ndl.go.jp/constitution/e/etc/c06.html

[176] The Issue of South China Sea, Ministry of Foreign Affairs People's Republic of China June 2000.  http://www.fas.org/news/china/2000/china-000600.htm.

[177] Stein Tonnesson, đd, tr. 319.

[178] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 39.

[179] Monique Chemillier-Gendreau, tr. 255. Ghi chú ngày 15 tháng 5, 1950 của Directorate trách nhiệm Asia-Oceania.

[180] Monique Chemillier-Gendreau, Nt, đd, tr. 40.

[181] Nt, đd, tr. 40.

[182] Nt, đd, tr. 116.

[183] Nt, đd, tr. 247. Lá thư Bộ Ngoại giao năm 1951 gửi Bộ Thuộc địa.

[184] Nt, đd, tr.. 116.

[185] Nt, đd, tr. 40.

[186] King. C. Chen, China’s war with Vietnam 1979. 1987: Hoover Institution, Stanford University, p. 45..

[188] James William Morley, The Soviet-Japanese Peace Declaration, Political Science Quarterly, Summer 1957.

[189] Treaty of Peace between the Republic of China and Japan. http://www.taiwandocuments.org/taipei01.htm.

[190] The Issue of South China Sea, Ministry of Foreign Affairs People's Republic of China June 2000. Posted on the website of Federation of American Scientist: http://www.fas.org/news/china/2000/china-000600.htm.

[191] B.Raman, Re-visiting the South China Sea, 3 April 2001. http://www.southasiaanalysis.org/%5Cpapers3%5Cpaper222.htm.

[192] Stein Tonnesson, nt, đd, tr. 47.

[193] Nguyễn Q. Thắng, Hoàng Sa Trường Sa, nxb Tri Thức, Sàigòn 2008, tr. 170-172,

[194] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 42.

[195] Spratly Islands 101, 8 March 2008, The Pinoy, http://thepinoy.net/?p=1184.

[196] See the translation of the Declaration of the Peoples’s Republic of China on the Territorial Sea, in Ian Lamont, “Defining a Territorial Sea: China’s South China Sea Policy in the 1950s and its 1958 Declaration on the Territorial Sea” http://www.scribd.com/doc/5020468/Proseminar-Chinas-South-China-Sea-Policy-in-the-1950s.

[197] The three legal arguments which have been previously used in courts are discussed in Từ Đặng Minh Thu, Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Thời Đại Mới, (oneline journal published from USA), No. 11, July 2007.

[198] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 44.

[199] Nt, đd, tr. 130.

[200] Monique Chemillier-Gendreau, đd, tr. 128.

[201] Spratly Islands 101, 8 March 2008, The Pinoy, http://thepinoy.net/?p=1184.

[202] Nguyễn Nhã, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Ph.D. thesis, Hochiminh National University, posted on http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2458.

[203] Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Công an nhân dân, 1995, Hà Nội, tr.147,

[204] Nt, đd, tr. 147.

[205] See US State Department, Limits in the seas, No. 99 Straight baselines: Vietnam, 1983.

[206] Russia and Southeast Asia: a new relationship, Contemporary Southeast Asia, 1 August 2006.

http://goliath.ecnext.com/coms2/gi_0199-6039248/Russia-and-Southeast-Asia-a.html

[209] Spratly islands dispute blocks exploration in South China Sea, http://www.gasandoil.com/goc/news/nts22618.htm

© Thời Đại Mới

 

Trở về trang chủ Thời Đại Mới

 

3-9-10