thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN

 

Số 3  - Tháng 11/2004

 



Những tiến sĩ Đức
trong Việt Minh
1

 

Heinz Schütte

 

Để tưởng nhớ Georges Boudarel,2
từ trần ngày 26-12-2003

 

I – Những trang sử chung

Nói tới những trí thức thuộc những nước sử dụng tiếng Đức đã đi theo Việt Minh, là đụng tới lịch sử Việt Nam giai đoạn 1941-1966, và đụng tới cả lịch sử Pháp, Áo và Đức từ năm 1933 đến nay. Đó là những trang sử chung của chúng ta, nên đó cũng là đề tài chúng ta gặp nhau. Cuộc hội thảo này có mục đích soi rọi một chương đoạn còn ít được biết. Về phần tôi, chỉ có thể làm công việc truy tìm những tư liệu và từ đó, dựng lại những sự kiện. Nhưng chứng từ của những người đã quen biết họ, làm việc với họ cũng rất quý báu và đáng hoan nghênh.

 Tôi đã may mắn tìm ra những tư liệu, đôi khi cả những phông tư liệu trong thư khố của Cộng hoà Dân chủ Đức cũ (CHDCĐ), của Pháp, dưới hầm một ngôi nhà nông thôn không xa thành phố Frankfurt trên sông Main, hay trong một căn phòng chứa vật dụng phế thải ở Paris, hoặc nhờ một bà cụ già ở Vienna. Phải nói là trong các cuộc kiếm tìm năm 2003, đôi khi tôi có cảm giác mình đang làm sống lại những con người đã bị người ta bỏ quên, bỏ quên vì chuyện của họ “có vấn đề”. Trên mỗi trang tư liệu, trong mỗi cuộc hỏi chuyện, tôi khám phá ra một nét mới trong cuộc đời của họ. Chúng ta hãy cùng nhau bù đắp sự quên lãng ấy, dù rằng đối với những ai đã quen biết và thương mến họ, điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng suôn sẻ.


II – Một vấn đề có lợi cho CHDCĐ

 Trước khi đi theo trình tự thời gian và phác hoạ lại một vài hành trình tiêu biểu, tôi muốn nói qua về việc hồi hương của các hàng binh dưới góc độ chính trị CHDCĐ :

 Ngày 20.2.1950, Erich Honecker, lúc đó là chủ tịch Phong trào Thanh niên Đức (FDJ), đã ra tuyên bố kêu gọi “những người lính Đức đang ở Việt Nam trong hàng ngũ đội quân Lê Dương”.  Vì sự tham gia Lê Dương của họ “đi ngược lại tiền đồ và danh dự của dân tộc ta”, ông kêu gọi hãy đứng sang “phe cách mạng Việt Nam hiện nay đã có nhiều người lính Lê Dương cũ người Đức tham gia”.  Honecker hứa là người nào trở về CHDCĐ sẽ được ân xá và tạo công ăn việc làm [3].  Bốn tháng sau, chủ tịch CHDCĐ Wilhelm Pieck nhận được thư của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam cho biết “có nhiều binh lính Đức hiện đang là tù binh của Giải phóng quân Việt Nam”.  Vấn đề này được coi là rất quan trọng, Pieck đã báo cáo trước Bộ chính trị vì “nếu chúng ta đưa được một số (những người này) về nước, thì là một điều... quá hay cho công tác tuyên truyền sang Tây Đức [4].  Và khi chuyến đầu tiên chở lính Lê Dương cũ sắp về tới Đức, tổng bí thư Đảng xã hội thống nhất (SED) Walter Ulbricht đã chỉ thị “phát động một chiến dịch tuyên truyền chống chính sách tái võ trang Tây Đức, thông qua những cuộc phỏng vấn, những chương trình phát thanh và phổ biến hình ảnh [5].  Qua việc này, ta thấy rằng, ngay từ đầu, các hàng binh người Đức đã được sử dụng trong cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của CHDCĐ...

 Cho nên sau đó Bộ an ninh CHDCĐ (Stasi) được chỉ thị “kiểm soát thường xuyên” những người trở về: đọc thư, theo dõi... Bộ an ninh đòi hàng tháng phải báo cáo về công tác, sinh hoạt xã hội, đạo đức và thái độ chính trị của mỗi người, và nhất là về các mối liên hệ của họ với “phương Tây” [6].  Bởi vì, cho dù họ tham gia phong trào chống thực dân của Việt Minh đi nữa, “đạo quân Lê Dương, những tội ác mà lính Lê Dương reo rắc... ở các nước thuộc địa tạo ra những điều kiện thuận lợi để các lực lượng phản động Pháp có thể lợi dụng khai thác những phần tử yếu đuối, dễ dao động nhằm phục vụ mục đích của đế quốc [7]. Chủ trương này được áp dụng đối với những thanh niên gia nhập Lê Dương sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai, và cả những người đấu tranh chống phát xít từ thập niên 1930.  Và CHDCĐ đã gài một số người hồi hương vào các cơ quan đại diện của Pháp ở Berlin.

 Cũng trong thời kì đó, trong những vùng Việt Minh kiểm soát, xì xào tin đồn là đã xảy ra (và rất có thể đã có xảy ra) một cuộc nổi loạn của lính Âu châu đào ngũ. Đó là những người đã nghe theo tiếng gọi của Erwin Borscher, tức Chiến Sỹ, tổng biên tập những tờ báo tuyên truyền địch vận.

 Ngày 6.8.1950, cũng ở Việt Bắc, một người Đức khác, Rudy Schröder (mà người Việt Nam quen biết dưới cái tên Lê Đức Nhân), được ông bạn Trần Văn Giàu cho biết “một tỉ số đáng kể” hàng binh Âu-Phi “sắp được đưa về nước”. Schröder không tài nào hỏi thêm được chi tiết cụ thể hơn và cảm thấy chung quanh mình là sự im lặng và nghi ngờ bao trùm [8].  Đáng chú ý là Trần Văn Giàu dùng chữ tù binh chứ không dùng chữ hàng binh. Sự lỡ lời này cho thấy thâm tâm người Việt Nam coi những đồng minh châu Âu của họ ra sao.

 Họ là ai? Thực ra, phải phân biệt hai loại. Thứ nhất là những người sinh ra khoảng năm 1910, sau tháng giêng 1933, đã phải bỏ nước Đức hay nước Áo sang Pháp tị nạn phát xít, đến tháng 9 năm 1939, khi chiến tranh thế giới bùng nổ, Pháp đưa họ vào những trại tập trung, sau đó họ đăng kí vào các đơn vị Lê Dương. Họ được đưa sang Đông Dương và cuối cùng, họ đã gia nhập kháng chiến chống thực dân.  Số người này không đông, khoảng một chục, nhưng họ là những người có lí tưởng chính trị, có văn hóa và có học. Những người lính Lê Dương ngoài khuôn mẫu.

 Loại thứ nhì, cũng là đa số, năm 1945 ở lứa tuổi 17-25, là những thanh niên mất phương hướng sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ. Vô học, vô gia cư nghề nghiệp, tứ cố vô thân, họ tìm thấy ở đội quân Lê Dương cơ hội giải thoát khỏi cảnh ngộ khốn cùng, một nơi chốn nương tựa.  Họ đào ngũ, chạy sang theo Việt Minh vì nhiều lí do khác nhau, trong đó chính trị là lí do ít quan trọng hơn cả.  Từ 1946 đến 1954, tổng cộng có 1325 lính Lê Dương đã bỏ ngũ theo Việt Minh, trong đó 673 người bỏ ngũ trong thời gian 1946-48. [9]

Như đã nói trên, chính phủ Việt Nam đã cho binh lính Đức trở về CHDCĐ. Trong số này, có cả tù binh lẫn hàng binh.[10]  Từ tháng ba 1951 đến cuối năm 1955, tổng cộng có 761 người, đi làm 7 đợt, từ Việt Bắc, qua Bắc Kinh và Moskva, về đến Berlin.  Mặt khác, Erich Frey, bí danh Nguyễn Dân, và Georges Walter, bí danh Hồ Chí Thọ, về tới Áo vào tháng năm 1951; cũng năm đó, Rudy Schröder và Walter Ullrich tức Hồ Chí Long về tới Berlin vào tháng 11.  Riêng Erwin Borchers còn ở lại Hà Nội đến năm 1965. Dưới đây chủ yếu tôi sẽ nói về Schröder, Frey, và Borchers là ba người đã sống với Việt Minh từ 1945 đến đầu thập niên 1950, để tìm hiểu những động cơ nào đã dẫn họ tới quyết định tham gia kháng chiến Việt Nam, cảnh ngộ của họ lúc ở Việt Nam cũng như khi trở về châu Âu giữa thời kì chiến tranh lạnh.

 

III – Bối cảnh lịch sử

 Peter Scholl-Latour, nhà báo Đức từng tham gia binh chủng nhảy dù của quân đội thực dân Pháp, đã kể lại chuyến đi của ông sang Đông Dương cuối năm 1945, trên một con tầu chở quân mà Pháp mượn được của Anh. Tàu đến Hồng Hải thì gặp từng đoàn tàu đi ngược chiều, trở về châu Âu, cờ chiến thắng phất phới bay trên cột buồm. Đứng chen chúc trên boong là những cựu chiến binh người Anh từ mặt trận Miến Điện trở về quê hương trong cảnh thanh bình....  Những binh sĩ Anh hạnh phúc ấy chế nhạo toán chiến binh thuộc địa chậm chân, hét to : Các cậu đi nhầm chiều rồi[11]...  Đất nước (Pháp, và cả Hà Lan nữa) vừa được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức, mà họ lại dấn thân vào con đường ngược chiều lịch sử.  Sau khi bị sỉ nhục trong cuộc thế chiến, họ muốn giành lại vinh quang quá vãng ở các nước thuộc địa. Phái hữu cũng như phái tả, kể cả Đảng Cộng Sản lúc đó là đảng lớn nhất ở Pháp, đều nhất trí như vậy. Ý đồ ấy, xét trên bình diện lịch sử, là một hoài vọng, xét trên bình diện đạo lí, là phi nghĩa, nhưng đối với tướng De Gaulle, cần phải làm vậy để tạo dựng nên một huyền thoại quốc gia mới nhằm khắc phục sự chia rẽ trong quá khứ còn gần kề, để xây dựng một khối đoàn kết quốc gia mới, khả dĩ gột rửa quá khứ trong kí ức tập thể dân tộc.

 Tháng sáu 1940, nước Pháp đầu hàng Đức. Chính quyền Pháp ở Đông Dương lâm vào thế cô lập, không thể nào chống lại sự bành trướng của Nhật Bản, và từ giữa năm 1941, họ đã hợp tác với Nhật Bản. Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương, lúc đó ở Hoa Nam, theo dõi tình hình trong nước và chờ đợi thời cơ Nhật Bản thất bại để Việt Nam có thể được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của ngoại xâm. Tháng năm 1941, họ thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, tức là Việt Minh, một mặt trận dân tộc cứu quốc, tập hợp mọi thành phần giai cấp, nhưng quyền lãnh đạo nằm trong tay người cộng sản.

 Năm 1940, hàng ngàn người, chiến sĩ cộng hoà Tây Ban Nha vừa thất bại sau cuộc nội chiến, Do Thái Đức tị nạn chế độ Hitler, Ba Lan thất trận sau cuộc Blitzkrieg đã gia nhập đội quân Lê Dương.[12]   Đối với họ, Lê Dương vừa là nơi ẩn náu, vừa là cơ hội tiếp tục cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít Đức-Nhật.  Cũng như quân đội Pháp trong thời kì ấy, các đơn vị Lê Dương chia ra hai phe: một bộ phận nhỏ đứng về phía Kháng chiến, còn đa số quy thuận chế độ Vichy.

 Trên mặt tiền ngôi nhà chung cư của tôi ở Quận 10 Paris, có gắn hai tấm cẩm thạch mang tên hai thanh niên kháng chiến đã ngã xuống đây hồi tháng 8 năm 1944.  Sau ngày giải phóng Paris, nhiều du kích thuộc FFI (Lực lượng kháng chiến quốc nội) đã hợp thành những trung đoàn để chiến đấu bên cạnh FFL (Lực lượng nước Pháp tự do, dưới quyền lãnh đạo của tướng De Gaulle). Một phần các lực lượng khởi nghĩa này ngả về phe tả, nếu không nói là cộng sản, hăng hái và quyết tâm cải tạo thế giới, không chấp nhận lập lại Nhà nước tư sản. Sau ngày Đức đầu hàng (8 tháng năm 1945), nhiều thanh niên đã đăng kí vào Đạo quân viễn chinh Pháp tại Viễn Đông (CEFEO), tưởng rằng để giải phóng châu Á khỏi ách phát xít Nhật.

 Nhật Bản đầu hàng ngày 15 tháng tám 1945.  Ngày 2 tháng chín 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập và thành lập một chính phủ đoàn kết dân tộc (dưới sự lãnh đạo của Việt Minh).  Binh sĩ trẻ trong CEFEO, nhất là những thanh niên đã tham gia kháng chiến, bèn được giải thích rằng các phần tử bản xứ cuồng tín chống Pháp, tức là bọn Việt Minh, được quân Nhật bại trận tiếp sức, muốn chiếm đoạt Đông Dương, cho nên phải quét sạch những băng đảng này ở thuộc địa, cũng như trước đây đã phải giải phóng nước Pháp khỏi ách thống trị của bạo quân quốc xã : Ở đây, lại xảy ra cái cảnh tượng mà các bạn đã trải nghiệm. Trước mặt các bạn là một bọn chó má, phải tận diệt chúng như các bạn đã tận diệt bọn Đức”[13].

 

IV – Những người chống phát-xít tị nạn ở Paris – Con đường dẫn họ vào Lê Dương

 Người Đức trong đội quân Lê Dương luôn luôn chiếm một tỉ lệ cao. Họ được coi là những  người lính Lê Dương gương mẫu , kỉ luật, dũng cảm, hung hãn và luôn luôn sẵn sàng nhận lệnh.[14]  Nhưng điều này không đúng tí nào đối với những thanh niên Đức sang Pháp tị nạn từ sau năm 1933, trong đó chỉ có một số ít gia nhập Lê Dương trong thời gian 1933-39, bởi vì những người bị chế độ nazi bức hại..., do thành phần xuất thân, trình độ học vấn... và nghề nghiệp của họ, cũng như do chính kiến và thể chất, không mấy tương ứng với mẫu lính lê dương tiêu biểu, thường xuất thân từ những giai cấp bên dưới... ít học..., tứ cố vô thân, đi làm thuê trong nông nghiệp hay công nghiệp, nay đây mai đó”[15].

 Trên cơ sở các đạo luật của nền Đệ tam Cộng hoà Pháp ban hành năm 1938 và 1939, khi chiến tranh bùng nổ, tất cả những người Áo và Đức từ 17 đến 65 tuổi đều bị đưa vào các trại tập trung, bất luận họ theo phát xít hay chống phát xít, du khách, viên chức hay doanh nhân. Đàn ông phải vào trại ngay từ tháng chín 1939, còn đàn bà bị đưa vào Vélodrome d’Hiver (Trường đua xe đạp mùa đông ở Paris) vào tháng năm 1940, khi chấm dứt thời kì chiến tranh kì quặc, rồi sau đó, họ bị đưa vào các trại Milles và Gurs ở miền nam nước Pháp.  Trong năm 1939, có 1171 người Đức bị tập trung đã đầu quân vào Lê Dương, và chỉ trong mấy tháng đầu năm 1940, số đầu quân đã lên gấp đôi.  Người ta ước tính có khoảng 3000-3500 người Đức trong trại tập trung đã đầu quân trong thời kì 1939-40, và khoảng 5000 tù binh Đức đã gia nhập Lê Dương trong thời gian từ tháng tám 1944 đến cuối năm 1946.[16]

 Câu chuyện cuộc đời của Rudy Schröder quê quán ở thành phố Köln (Đức) cho thấy một chuỗi dài những ngẫu nhiên đã đưa đẩy ông vào Lê Dương, rồi bước sang hàng ngũ Việt Minh, trở về Đông Đức, rồi cuối cùng chạy sang Tây Đức. Nó cũng cho thấy là cái cách xếp loại chống phát xít, cộng sản đã được sử dụng một cách quá dễ dãi để giải thích theo thuyết tất định hành trình của một con người...

 Trong tự truyện của mình, nhà chính trị học và triết gia Raymond Aron (từ năm 1930 đến 1933 làm trợ lí giảng dạy Pháp văn ở Trường đại học Köln) đã viết như sau : Tại Cologne (tên tiếng Pháp của Köln, chú thích của N.D.) tôi được gặp một sinh viên trẻ làm tôi rất cảm mến, đó là Rudy Schröder. Cha anh buôn bán áo mưa và ô dù. Trong thời gian ở Đức, tôi đã chơi rất thân với Rudy. Anh ta tởm lợm chủ nghĩa quốc xã. Hai năm sau, anh chạy sang Paris và sống vất vưởng cho đến ngày khai chiến. Lúc đó, anh đầu quân vào Lê Dương, rồi khi chiến tranh chấm dứt, tôi được tin... ở Đông Dương anh đã chạy sang hàng ngũ của Hồ Chí Minh. Một hôm, trên tờ Le Figaro, tôi đọc thấy một bài báo... nhan đề Tên đại tá SS Rudy Schröder… Tôi có tìm cách viết thư liên lạc nhưng có lẽ anh không hề nhận được. Năm 1946, ông bà thân sinh hỏi tôi có tin tức gì không; khoảng 1960, nghe người Đức nói anh làm giáo sư Trường đại học Leipzig. Nếu anh vẫn còn sống ở Đông Đức, tôi cũng muốn gặp lại anh. Tôi khó tin rằng cuộc sống đã biến được anh thành một đảng viên cộng sản trung kiên. Song việc anh đã đào ngũ khỏi Lê Dương và từ bỏ chế độ của Pháp ở Sài Gòn hay Hà Nội không làm tôi ngạc nhiên; vả lại tôi nhân danh cái gì mà trách anh?.[17]  Tuy có một vài tiểu tiết sai lệch, mấy dòng vừa trích của một người cựu kháng chiến đã tóm tắt những chương chính trong cuộc đời của Rudy Schröder, chỉ thiếu chương hồi cuối là năm 1959, ông trốn sang Tây Đức. Tiếc thay, hai người bạn thâm giao ấy đã không bao giờ gặp lại nhau.

 Ý nghĩa cuộc đời của Schröder vượt quá phạm vi cá nhân – và điều này cũng đúng đối với những người khác mà tôi sẽ đề cập ở đây. Như tôi đã nói ở trên, nó minh hoạ lịch sử đau khổ của nước Đức, nước Pháp và của nước Việt Nam thế kỉ XX. Schröder là người miễn cưỡng đổi tuyến. Nếu không vì hoàn cảnh chính trị đẩy đưa thì rất có thể ông đã trở thành giáo sư một trường đại học Đức, có quan hệ chặt chẽ với những đồng nghiệp người Pháp, viết dăm ba cuốn sách về xã hội học, chính trị và văn học, hay lịch sử văn hoá và viết những bài tiểu luận tuyệt vời trên các báo hay tạp chí.

 Schröder sinh năm 1911 tại Köln (Cologne), mang nặng dấu ấn của quá khứ văn minh La Mã của thành phố này – tính tình ông bay bướm, hưởng lạc, khiếu thẩm mĩ tinh tế, đồng thời say mê tìm hiểu, truy hỏi, khám phá những mâu thuẫn của cuộc sống. Hai mặt đối ngẫu ấy có thể dẫn tới bệnh trầm cảm và bất mãn sâu sắc nếu đương sự  không được trọng thị trong xã hội. Trong bản Lý lịch Đảng viên (có lẽ viết vào tháng ba 1950), Schröder khai thành phần xuất thân của mình là Tư sản.[18]  Thời gian này, ông dùng bí danh Lê Đức Nhân, cũng có người chỉ biết ông dưới cái tên Đức là Kerkhof(f). Thời sinh viên, ông học xã hội học, tiếng Pháp và văn học Đức, tham gia Phái cộng sản sinh viên (KOSTUFRA).[19]  Lúc đó, thầy học của ông là người Do Thái, bị bọn quốc xã cho về hưu,[20]  Schröder đã ngang nhiên mang bó hoa tới tặng thầy. Tờ báo nazi Der Stürmer đã lớn tiếng thoá mạ, coi ông là kẻ thù của chế độ, là cộng sản và thân Do Thái. Mặc dầu hoàn cảnh lúc đó, đối với chàng thanh niên Schröder, di cư sang Paris không phải là một đại hoạ, mà là cơ hội thực hiện một ước muốn sâu xa nhất. Tại trường Sorbonne, ông đỗ ngay ba, bốn chứng chỉ cử nhân, làm việc bán phần cho Viện xã hội học Frankfurt lưu vong tại Paris với cương vị trợ lí cho nhà tư tưởng lớn Walter Benjamin.[21]

Trong một lá thư tháng mười một 1939 viết từ New York, Max Horkheimer nói tới Herr Schröder (như là) một nhà bác học trẻ hết sức thông tuệ. Chúng tôi hi vọng sẽ tranh thủ để ông trở thành một đồng nghiệp khoa học xuất sắc.[22]  Về mặt vật chất, cuộc sống rất chật vật. Để có thể sống qua ngày đoạn tháng, Schröder phải đi làm thêm trong một xưởng dệt, có lúc phải vác những tấm thảm đi gõ cửa rao bán từng nhà.

 Một người bạn hồi đó, Fritz Meyer, bị giam cùng trại tập trung với Schröder. Năm 2003 ở Paris, ông Meyer kể lại cho tôi: khi tới sân vận động Colombes (ngoại ô tây bắc Paris, chú thích của ND), họ được người ta nói rõ là họ sẽ ở mãi sau hàng rào kẽm gai cho đến ngày chiến tranh kết thúc, trừ phi là họ đăng kí đầu quân vào đội Lê Dương; ai tình nguyện đầu quân thì gia đình sẽ không bị đưa đi tập trung. Sau này, Schröder viết: Chỉ nghĩ tới việc vợ tôi và cháu bé chưa đầy một tuổi thôi nôi phải vào trại an trí là tôi thấy không tài nào chịu nổi rồi.

  

V – Từ Paris đến Hà Nội qua Sidi Bel Abbès

 Thật ít có khả năng Schröder và Borchers quen nhau từ Paris... Erwin Borchers sinh năm 1906 tại Strasbourg, người vùng Alsace gốc Đức. Cha ông làm thợ tiện trước khi trở thành quân nhân, là người nước Phổ. Mẹ ông quê vùng Alsace, thuộc một gia đình sống bằng nghề trồng nho. Gia đình Borchers như vậy là một gia đình sống ở vùng giáp ranh giữa hai nước, bị xâu xé giữa hai quốc gia và giữa hai chủ nghĩa quốc gia. Con người ở đây dễ bị lâm vào thảm kịch cái gì của con người cũng bị chính trị hoá, có nguy cơ  ngày mai là anh hùng... (và) ngày kia biến thành tên phản quốc[23] chỉ vì muốn bám trụ ở một vùng đất bị hai chính quyền đối nghịch tranh giành...

 Trong bản lí lịch viết năm 1966 tại Berlin, Borchers cho biết cha ông hết mực ủng hộ hoàng đế Đức khi lên đường ra trận tham gia Đại chiến thế giới lần thứ nhất, đến khi trở về đã thành người ủng hộ chế độ cộng hoà và chủ nghĩa hoà bình, điều này đã tác động sâu sắc khiến ông trở thành khuynh tả. Năm 1918, khi tỉnh Alsace-Lorrraine trở lại thành lãnh thổ Pháp, gia đình ông di cư sang Đức. Chàng Borchers ngay từ thời con trai, đã bị chính trị ám ảnh (Lilo Ludwig) lãng mạn dài dài (Susanne Borchers) theo học các môn Pháp văn, Đức văn và sử học, nuôi mộng trở thành nhà giáo, và tham gia nhóm xã hội chủ nghĩa.  Khi Hitler lên cầm quyền, Borchers là thành viên một nhóm tuyên truyền bí mật, in và rải truyền đơn chống nazi.  Bị tố cáo và bị công an thẩm vấn, Borchers lánh sang Pháp, tiếp tục theo học đại học ở Aix-en-Provence và Paris, năm 1936 tốt nghiệp cử nhân văn học và ngữ văn Đức.  Ông già Borchers, một người cha độc đoán, thấy con trai bỏ nước ra đi thì không vừa lòng chút nào, vì đối với ông, đó là một hành động phản bội tổ quốc.  Là công dân Đức, Erwin Borchers không được tuyển dụng vào giáo giới Pháp, phải đi làm công ở hiệu sách Biblion, phố Bréa.  Xin gia nhập quân đội Pháp để chiến đấu chống Nazi thì bị từ chối, vì lấy chồng Đức là mẹ anh đã phản bội Tổ quốc Pháp.[24]  Erwin Borchers bị đưa vào trại tập trung Colombes ngày 3 tháng chín 1939, tại đây, anh kí giấy đầu quân vào Lê Dương. Đối với tôi, trong thời kì chiến tranh, phục vụ trong hàng ngũ Lê Dương là một điều có thể chấp nhận được về mặt chính trị, vì Lê Dương nằm trong quân đội Pháp, khách quan mà nói, là một lực lượng của khối đại đồng minh chống Hitler mà Liên Xô là thành viên... Lê Dương đang đối đầu với Hitler ở Narvik, ở Monte Cassino và trên nhiều mặt tận khác....[25]  Đúng là ở thời điểm 1939, đạo quân Lê Dương mang hào quang chống phát-xít.

Schröder và Borchers được gửi tới Sidi-Bel-Abbès để gia nhập Trung đoàn 5 Bộ binh Ngoại quốc (R.E.I.). Schröder nghe tin vợ con phải di tản từ Paris xuống miền nam nước Pháp, cảm thấy bất lực, không làm gì giúp được gia đình, ông viết : cái mà trước đây được coi là không bao giờ có thể, khi nó đổ lên đầu, từ từ từng chút, rồi ào xuống như thác lũ, thì cuối cùng cái kinh hoàng nhất bỗng trở nên tất yếu, tự nhiên.[26]  Ông còn nói tới sự hoàn toàn vô tích sự, sự ngu xuẩn, tàn bạo và thô tục trong cuộc đời của tên lính Lê Dương Schröder, nguyên là phu đào huyệt, nay làm lính dắt la kiêm ‘ông già khố đế’ để nói rằng chỉ còn sống nhờ những bức thư của vợ con.[27]  Đầu năm 1941, uỷ ban đình chiến Đức tới trại Lê Dương, yêu cầu phải dẫn độ toàn bộ lính Lê Dương người Đức.  Tuy nhiên, Bộ chỉ huy Lê Dương chỉ chịu nhận dẫn độ những ai tự nguyện xin về Đức sống dưới chế độ Reich thứ III.  Tướng Maxime Weygand, tổng đại diện của Pétain ở Bắc Phi, tìm cách bảo vệ những binh lính Lê Dương người Đức; theo đề nghị của ông, Biệt đội Ma, gồm khoảng một trăm phần tử đối lập với chủ nghĩa quốc-xã là những người đặc biệt dễ bị truy bức... cộng thêm mấy đào binh của quân đội Wehrmacht,[28] được đưa sang Đông Dương trước khi họ bị Uỷ ban đình chiến Đức bắt được.  Điều này chứng tỏ, ngay trong nội bộ của những hệ thống tư tưởng, phán đoán từng cá nhân cũng phải uyển chuyển và căn cứ vào hành xử của mỗi người.[29]

 Ngày mồng 1 tháng tám 1941, trên tàu Cap Pandaran ghé bến Madagascar, Schröder viết cho vợ một lá thư dài, kể rằng ngày 4 tháng bảy, ông cùng khoảng một trăm người đã lên tàu ở cảng Dakar. Ông khoe đã đánh cuộc với B –  chắc là Borchers  –  về một động từ bất quy tắc hiếm có trong tiếng Latinh, và anh đã được cuộc”. Đọc Bergson và Hobbes. “Bọn anh ở chen chúc dưới hầm tàu,... nhưng người An Nam còn ở khổ hơn thế”. Họ cập bến Sài Gòn ngày mồng 3 tháng mười một, rồi mấy ngày sau, đi xe lửa ra bắc, đến Việt Trì, cách Hà Nội 80 km về phía tây-bắc.[30]

 Chẳng mấy lúc, Borchers và Schröder mất hết ảo tưởng về phong cách chính trị - quân sự của đội quân Lê Dương. Toàn quyền Decoux ngày càng áp đặt nhãn quan “cách mạng quốc gia” và “suy tôn chiến sĩ” theo đúng đường lối của Pétain. Đó không phải là bầu không khí dân chủ và chống phát-xít họ chờ mong, mà giống như bầu không khí mà họ đã trốn tránh. Vấn đề chống Nhật không đặt ra vì Decoux đã kí kết thoả ước chấp nhận sự chiếm đóng của quân đội Nhật Bản, như Pétain đã kí kết với Đức ở bên Pháp. Lí do Decoux nêu ra là để duy trì Đông Dương cho nước Pháp. Borchers và Schröder đã nhận thức ra thực tại của chế độ thực dân và được biết người An Nam đang hoạt động kháng chiến ở vùng Đông Bắc. Tổ chức kháng chiến còn phôi thai của Pháp tại Đông Dương thì chủ trương Đông Dương phải trở về trong lòng đế quốc Pháp, do đó họ từ chối mọi sự hợp tác với Việt Minh và dân chúng trong công cuộc kháng Nhật. Ngày 9 tháng ba 1945, Nhật đảo chính, Pháp thua... Việt Minh kêu gọi cùng nhau kháng chiến chống Nhật, rồi kêu gọi bình đẳng và độc lập, phía Pháp không hiểu ra. Ngay đến năm 1946, khi Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng nội vụ, đón chào Leclerc, tổng tư lệnh Pháp, bằng câu : “Là người kháng chiến Việt Nam, tôi xin chào một người Pháp kháng chiến vĩ đại...”,[31] cũng vẫn thế. 

 

VI – Vượt khỏi sự dấn thân dân tộc...

 Đến đây, tôi muốn dành đôi dòng để nêu câu hỏi này: Vì sao Schröder và Borchers đã sẵn sàng hợp tác với cuộc kháng chiến của Việt Minh và đã tham gia Việt Minh với “lương tâm yên ổn và hăng hái tin tưởng” [32] ? Đối với những người yêu nước và dân tộc chủ nghĩa (câu hỏi này đặt ra cho người Đức và người Áo trong hai cuộc thế chiến, và cho người Pháp trong các cuộc chiến tranh thuộc địa), câu hỏi đặt ra là: làm sao tưởng tượng nổi là người ta rời bỏ cái nôi quốc gia tự nhiên và đứng sang hàng ngũ địch? Cần phải nhấn mạnh là Schröder cũng như Borchers đều không phải là những người cộng sản chính thống, họ không coi cách mạng là mục tiêu tối thượng.

 Vậy thì cái gì đã thúc đẩy họ rời bỏ hàng ngũ? Ban đầu, như ta thấy, quyết định đầu quân Lê Dương là do hoàn cảnh đưa đẩy. Đối với Schröder, thế giới “thiếu sự nhất quán”, “chẳng có cách nào thoát khỏi phi lí”.[33]  Nhưng bước sau, gia nhập Việt Minh, là một quyết định gay go hơn nhiều, bởi vì đi với Việt Minh là qua sông đốt cầu với Tây Âu. Cảm tưởng của tôi là đối với người trí thức – nhưng không riêng gì trí thức – có một sự “giác ngộ”, một ước vọng về một thế giới ‘tự nhiên’, thì ý muốn tham gia vào một chính nghĩa vừa có tính chất chính trị vừa có tính chất đạo lí... Sự giác ngộ ấy được thể hiện trong tập chuyện tranh nhan đề Les Oubliés d’Annam (Những người bị quên lãng ở An Nam): sau ngày Paris giải phóng, một thanh niên kháng chiến Pháp đầu quân vào Lê Dương để tiếp tục chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, và phải đối mặt với một biến cố làm anh phải nhìn thế giới với một con mắt khác. Một tên lính Lê Dương cũng người Pháp cãi nhau với người phu xich lô về giá cả chuyến xe, rồi rút dao đâm chết anh xích lô. Anh thanh niên Pháp khởi tố tên lính Lê Dương, tên này chỉ bị 15 ngày tù. Anh viết thư cho mẹ: “Con không những tham gia vào một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, mà còn ở trong một quân đội gồm những tên sát nhân. Ô nhục quá...”. Và “càng ô nhục hơn nữa, vài ngày sau, người đầu bếp trại lính vốn khoái thịt chó đã bị kết án một tháng tù vì tội làm thịt con chó của đại uý”[34].  Claudia Borscher, con gái của Erwin, xác nhận với tôi là cha cô thường hay kể lại câu chuyện đã khắc sâu vào tâm khảm của ông.  Câu chuyện ấy biểu hiện cấu trúc xã hội của chủ nghĩa thực dân, nó làm lộ rõ những mâu thuẫn của thế giới chúng ta đang sống. Và giúp chúng ta nhìn nó với một khoảng cách.

 Điều đó rất đúng đối với Ernst Frey, sinh năm 1915 trong một gia đình Do Thái Hung-ga-ri không còn sùng đạo. Cha là một đảng viên dân chủ xã hội khát khao trau giồi văn hoá. Thế giới của gia đình này gói gọn trong biên giới quốc gia, ngôn ngữ và tôn giáo của đế chế Áo-Hung. Truyền thống Do Thái trở thành chủ đạo từ khi bọn Nazi giam hãm họ trong truyền thống ấy. Sau một thời tuổi trẻ say mê sùng đạo Công giáo, chàng trai Ernst đã tìm thấy con đường cộng sản chủ nghĩa thông qua giai đoạn dân chủ xã hội và hoạt động trong VSM (Hội học sinh xã hội chủ nghĩa). Phải nói thêm là hành trình của Ernst mang nặng dấu ấn kinh nghiệm cá nhân về chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa quốc xã. Ernst Frey đã tìm thấy ở chủ nghĩa Marx một phản mô hình cung cấp cho anh những công cụ cần thiết để đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.

 Năm 1934, “gia nhập Liên đoàn cộng sản thanh niên”, Frey viết, “tôi đã trao hiến toàn bộ con người tôi cho đảng”. Câu tiếp theo rất có ý nghĩa vì nó giúp ta hiểu nhiều khúc quay ngoắt trong cuộc đời phong ba của Ernest Frey: “Sự quy phục toàn diện của tôi là tự nguyện, không một chút do dự, tôi đặt Đảng lên trên mọi giá trị”. Con người ông bị ám bởi một thứ chủ nghĩa Mêsia nửa chính trị nửa tôn giáo, bởi mặc cảm cứu rỗi được biện minh bởi sự bức hại của chế độ Nazi. Do “hoạt động trong một hội kín (VSM) và bị lên án phản quốc”, Frey đã bị bỏ tù và “vĩnh viễn khai trừ” khỏi các trường đại học trên toàn nước Áo.[35] Ngày 15 tháng ba 1938, “cả thành phố Vienna bị thất điên bát đảo  –  Führer tiến vào thành phố”. Mẹ của cậu Ernst “giữa ban ngày ban mặt bị đánh đập, phết sơn lên khắp người, nhục mạ, phỉ nhổ và nhạo báng hàng giờ liền”.  Cuối cùng, trước tối hậu thư, “phải chọn lựa giữa tù đày hay lưu vong”, Frey quyết định xung phong vào Lữ đoàn quốc tế ở Tây Ban Nha. Trên đường đào vong, ông bị bọn SS bắt được, giam cầm trong tù ba tháng rồi bị đại đế chế Đức truất tịch. Sang Paris, ông đi gõ cửa từng nhà để chào bán bút chì. Khi chi bộ đảng quyết định không cho phép sang Tây Ban Nha, Frey đăng kí đầu quân 5 năm vào Lê Dương để chống Hitler; đói meo, không một xu dính túi. Ngày 17 tháng ba, ông lên tàu Dupleix ở hải cảng Casablanca; ngày 1 tháng bảy 1941 cặp bến Sài Gòn. Cuối năm ấy, cùng với Schröder, Borchers và mấy người khác, Frey thành lập một chi bộ cộng sản trong đội quân Lê Dương đồn trú ở Việt Trì.[36]

 Công phẫn trước sự hợp tác Pháp-Nhật và sự móc ngoặc với các nước phe trục, họ tìm cách bắt liên lạc với những đảng viên xã hội Pháp ở Hà Nội. Họ cũng tìm cách bắt chuyện với những người An nam mít ở Việt Trì, nhưng quả là xôi hỏng bỏng không vì dường như người bản xứ không thể nào tưởng tượng được là có những người Âu quan tâm tới họ, muốn thảo luận với họ. Trong các buổi họp bí mật của chi bộ, lúc đầu họ còn bàn tới chiến tranh và mổ xẻ chủ nghĩa phát xít, nhưng chẳng mấy lúc, đề tài chủ nghĩa thực dân đã trở thành chủ đạo.[37] Họ muốn thống nhất chi bộ của họ và bộ phận địa phương của kháng chiến Pháp thành một mặt trận thống nhất để bắt liên lạc với Đảng cộng sản Đông Dương hay Việt Minh. Tháng mười một 1943, ở trung tâm Hà Nội, gần hồ Hoàn Kiếm, Frey gặp một đại diện cấp cao của ĐCSĐD. Cuộc gặp do Georges Walter dàn xếp qua sự trung gian của Louis Caput, bí thư Đảng bộ Bắc Kì của Đảng xã hội Pháp.[38] Đầu năm 1944, Borchers gặp tổng bí thư đảng, Trường Chinh, “trên một cánh đồng ruộng gần Hà Nội”,[39] tuy lúc đó Trường Chinh không nói mình là ai. Tôi có cảm tưởng chi bộ Lê Dương đã được sáp nhập vào ĐCSĐD vào đầu mùa hè 1944, [40] và đó là mối liên hệ duy nhất thực sự giữa Việt Minh và nước Pháp tự do trước ngày Nhật đảo chính 9 tháng ba 1945. Trường Chinh đã đề nghị các phần tử người Âu chống phát xít hãy cộng tác với Việt Minh song không nhóm nào, phe De Gaulle hay Đảng xã hội, muốn chấp nhận ý tưởng một nước Việt Nam độc lập. Viễn cảnh liên minh quân sự Âu-Việt chống Nhật với mục tiêu Việt Nam độc lập đã tan biến.

 

Hình 1
 Từ trái qua phải:
 Ngồi: Phạm Văn Đồng, Erwin Borchers / Chiến Sỹ, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Võ Nguyên Giáp, Đặng Bích Hà (vợ tướng Giáp) ; Đứng : Lưu Văn Lợi, X, X, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân (Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)

 

VII - …tiến tới đoàn kết cộng hoà & chống thực dân 

 Sau ngày 9 tháng ba, một vài người Pháp quy phục Việt Minh vì muốn trốn tránh sự đàn áp của quân Nhật. Borchers, Frey và Schröder cùng mấy ngàn binh sĩ bị Nhật bắt làm tù binh, lúc đầu bị giam trong thành Hà Nội, sau đó bị đưa lên trại “tận diệt” gần Hoà Bình.[41]   Họ bị lao đao vì bệnh kiết lị và thương hàn. Nhật Bản đầu hàng ngày 15 tháng tám, Việt Minh tiến hành Cách mạng tháng Tám như một dòng thác lũ dân tộc chủ nghĩa. Schröder ghi : “Người an-nam-mít đã trở thành người Việt Nam”.[42]  Ngày 2 tháng 9, Hồ chủ tịch tuyên bố độc lập với mục đích xây dựng một quốc gia đoàn kết thành một khối thống nhất và thuần nhất.

 Các tù binh được trả tự do ngày 16 tháng 9. Frey-Schröder đã có nhiều cuộc họp với các đảng viên xã hội tập hợp chung quanh Louis Caput, có lẽ với sự thoả thuận ngầm của Jean Sainteny, với mục đích dùng các đảng viên chi bộ làm trung gian nhằm đưa chính phủ Hồ Chí Minh nhận thương lượng với các đại diện của Pháp có mặt tại chỗ, nhưng đại diện Pháp không chấp nhận độc lập là điều kiện tiên quyết  –  tối cùng, họ chỉ chấp nhận thảo luận về những phương thức đưa tới một nền độc lập trong tương lai. “Họ vẫn dùng chữ An-na-mít”, Frey nhận xét, “còn chúng tôi nói: Người Việt Nam”.[43]

 Frey thu xếp với Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp để ông và hai bạn Walter Ullrich và Georges Wächter chuyển sang hàng ngũ Việt Nam, vì như lời Borchers, “nơi đây, triết học sắp trở thành thực tiễn, và tôi có cảm tưởng họ sẽ cần tới chúng ta”.[44]  Cuộc đào ngũ của họ được nguỵ trang thành một công tác gián điệp cho chính quyền Pháp (như Schröder viết) hay một công tác do Caput-Sainteny giao cho nhằm thuyết phục những người lãnh đạo Việt Minh chịu thương lượng với Uỷ viên Cộng hoà Pháp ở Bắc Kì.  Nhóm đồng chí đi ra khỏi Thành cổ Hà Nội trong một chiêc xe Buick cũ. Tôi mường tượng công cuộc mới này quyến rũ và kích động họ tới mức nào. Họ vừa sống sót sau một cuộc đại chiến, họ còn trẻ tuổi, và chắc mẩm đã tìm ra chính nghĩa...

 Đầu mùa thu 1945, Nhật đầu hàng và Việt Nam tuyên bố độc lập, người Pháp không còn có thể nói họ ở Đông Dương để đánh các lực lượng phát xít phương Đông như trước đó họ chiến đấu chống Đức quốc xã và chính quyền Quốc gia Pháp cô-la-bô. Nói như vậy chẳng ai tin. Từ nay, rõ ràng người Pháp là kẻ xâm lăng, chống lại những người yêu nước, những người quốc gia đang bảo vệ nền độc lập của đất nước; một cách nào đó, họ đã trở thành bọn Nazi của người Việt Nam và Việt Minh. Quân lính Pháp ngày càng thắc mắc, nghi hoặc : “Trước mặt họ, người ta nói thế, là Cộng sản; nhưng Cộng sản là như thế nào? Ở Pháp, chính đảng số 1 không phải là Cộng sản sao?... Có thể nào tin vào lời nói cửa miệng của bọn lãnh đạo tồi tệ như vậy không?... Có một điều họ chắc chắn : trước mặt họ, là những người Việt Nam chiến đấu cho độc lập của đất nước họ”.[45]

 Vì thế mà có một số, với những động cơ khác nhau, đã quyết định bước sang hàng ngũ “bên kia”, trong đó có những quân nhân Nhật và những người trong lực lượng võ trang Pháp (trong đó phải kể những người Maroc, người Algérie) và một số dân sự.  Họ mang tới cho Việt Minh những tri thức quân sự và kĩ thuật. Frey có viết về những người lính Nhật đào ngũ mà Ban chấp hành Trung ương ĐCS Việt Nam sử dụng rất thận trọng vì nghi họ có thể làm gián điệp... Stefan Kubiak, một người Ba Lan táo bạo, tỏ ra là một người thợ máy cừ khôi, có biệt tài là “cái thú sửa chữa các vũ khí bị hư hỏng hay mới chiếm được của địch như đại bác, súng cối...”[46]. Tài sửa chữa thần thông của Kubiak rất có ích cho Việt Nam trong những năm đầu.

 Trong những người đổi hàng ngũ nói trên, có những người đã làm vì tinh thần đoàn kết xuyên quốc gia, họ “đã chọn một tổ quốc mới, tin tưởng vào nhân sinh quan và đường lối chính trị của tổ quốc mới – họ nói tới tổ quốc cũ như là nói tới một đất nước thù địch”.[47]  Sau khi những người “phản quốc vì lí tưởng” ấy đã bước sang “bên kia”, họ được tổng bí thư Trường Chinh phân công vào cơ quan tuyên truyền (riêng Walter Ullrich công tác trong quân đội, sau được phong hàm trung tá, dưới bí danh Hồ Chí Long; còn Georges Wächter tức Hồ Chí Thọ trước khi làm báo đã theo học trường kĩ sư ở Vienna, nên được sắp xếp làm công tác kĩ thuật và tổ chức).  Schröder làm bình luận viên Đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam, còn Frey làm việc dưới quyền tướng Giáp, nghiên cứu quân sự và tổ chức những lớp học quân sự đầu tiên cho Quân đội Nhân dân.  Borchers mang quân hàm trung tá, làm chính uỷ phụ trách tuyên truyền địch vận; ông có nhiệm vụ biên tập các tài liệu tuyên truyền tiếng Pháp và tiếng Đức, và từ năm 1951 trở đi, phụ trách tuyên huấn cho khối tù binh Lê Dương người Đức. Bộ ba Borchers, Frey và Schröder chuẩn bị xuất bản tuần báo La République (Cộng hoà), rồi Le Peuple (Nhân Dân) nhằm làm cho người Pháp thấy chính phủ Việt Nam và Việt Minh không phải là phiến loạn mà là những tổ chức hợp pháp, dân chủ. Mọi mưu toan dùng võ lực tái chiếm sẽ được coi là vi phạm nhân quyền”.[48]  Có lẽ những tờ báo này cũng nhắm cả giới độc giả thượng lưu Việt Nam biết tiếng Pháp.

 Báo Le Peuple ra từ ngày 7 tháng tư đến 26 tháng chín 1946; nó kêu gọi tất cả những người thiện chí hảy ủng hộ nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, nghĩa là phản đối việc tách Nam Kì ra khỏi chủ quyền Việt Nam như Truman, Stalin và Churchill đã quyết định hồi tháng bảy-tám 1945 ở Potsdam. Các tiến sĩ người Đức (Jacques Doyon[49] đã gọi họ như vậy) viết báo dưới những bút hiệu: Frey thì kí tên là Nguyễn Dân, Borchers trở thành Chiến Sỹ, Schröder kí Lê Đức Nhân hay Walter R. Stephen; còn một người Đức nữa, Siegfried Wenzel, thì lấy bút hiệu Đức Việt. Họ trở thành những người Việt mới: “nơi ấy từ nay là tương lai, là tiền đồ của tôi, tôi tin chắc ở điều đó”, sau này Frey đã viết như vậy, còn Schröder thì khẳng định: “cả ba chúng tôi đều coi Việt Nam là tưong lai của chúng tôi, và thật sự đã là đất nước của chúng tôi rồi”.[50]

 

Hình 2
Từ trái sang phải:
Dương Bạch Mai, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Trường Chinh, X,
Georges Wächter / Hồ Chí Thọ, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân
(Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)


VIII – Vỡ mộng, tìm đường trở về

 Các nhà lãnh đạo của nước Việt Nam mới chủ yếu là những trí thức hay những nhà cách mạng chuyên nghiệp, phần đông đã học trường trung học Pháp-Việt và thạo tiếng Pháp, nhưng họ chưa bao giờ là những nhà chiến lược quân sự, kĩ thuật viên, kính tế gia hay những người tổ chức bộ máy hành chính. Vì vậy những người ngoại quốc từ bỏ hàng ngũ để đi theo kháng chiến, quân nhân cũng như dân sự, học cao và có khả năng kĩ thuật, trung thành với sự nghiệp kháng chiến và sẵn sàng hi sinh, đã được hoan nghênh tích cục, một số đã giữ những vị trí cao.

 Borchers, như đã nói trên, được cử làm chính uỷ, với quân hàm trung tá trong quân đội, phụ trách địch vận. Hữu Ngọc, nhà báo và nhà văn nổi tiếng, phụ trách khối “hàng binh” người Âu trong thời kì chiến tranh (dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Chí Thanh). Từ năm 1947, cùng với bạn là Borchers, đã ấn hành các tờ báo Waffenbrüder – Kampforgan der Deutschen im Dienste Viet-Nams Frères d’armes – Organe de Combat des Amis du Viet-Nam (Chiến hữu -- Cơ quan ngôn luận của những người Bạn của Việt Nam). Đến năm 1950, hai tờ này đổi tên thành Heimkehr Retour (Trở về). Chiến Sỹ còn dạy tiếng Đức cho Hữu Ngọc, và “nhất là văn hoá Đức!” (theo yêu cầu của Hữu Ngọc). Giữa thập niên 1950, Hữu Ngọc đã dịch các chuyện kể của anh em họ Grimm ra tiếng Việt âu cũng là hệ quả thứ yếu của một cuộc chiến tranh ghê gớm từ đó đã nảy sinh những gì anh hùng, cao đẹp nhất cũng như những gì thú tính và tàn bạo nhất của con người.

 Sau trận Điện Biên Phủ, Borchers về Hà Nội công tác ở Bộ thông tin. Cuối thập niên 1950, làm thông tín viên cho ADN (Thông tấn xã Đông Đức), đồng thời cung cấp “tin tức nội bộ” cho đại sứ quán CHDCĐ. Cho đến ngày nay, tên tuổi Chiến Sỹ vẫn còn là một huyền thoại, song, cũng như mọi huyền thoại, đương nhiên nó đã được gạn lọc, mọi “thực tế phũ phàng” đều bị gạt ra để phục vụ lợi ích cách mạng... Georges Boudarel, bạn thâm giao của Borchers, đã kể lại cho tôi rằng Chiến Sỹ cũng đồng tình với ông trong thái độ phê phán ngày càng mạnh đối với Đảng. Đúng là Borchers đã tiêm nhiễm tư tưởng xét lại từ năm 1956 lan truyền trong Đảng – Borchers và Boudarel đều bị quy kết là thành phần xét lại. Mặt khác, đối với các đại diện Đông Đức ở Hà Nội thì Borchers bị coi là quá Việt Nam, còn đối với người Việt Nam, tôi ngờ rằng Borchers vẫn bị coi như người nước ngoài. Tất cả những yếu tố ấy gộp lại đã góp phần đưa tới ý định trở về Âu châu, song những cuộc ném bom Mĩ bắt đầu ở miền Bắc mới là nguyên nhân quyết định: Borchers ngán sợ chiến tranh, ông nói thẳng với vợ con là ông không kham nổi thêm một cuộc chiến tranh nào nữa. Trong suốt những năm 1946-54, ông chịu đựng được đói khổ, bệnh tật, hiểm nguy, vì thời đó có lí tưởng, có bầu không khí anh em đồng chí, có sự đổng tâm nhất trí. Ứơc muốn của Borchers là về sống ở sinh quán là thành phố Strasbourg, nhưng Strasbourg thuộc lãnh thổ Pháp, mà đối với chính quyền Pháp ông là đào ngũ và phản quốc. Vì vậy, năm 1966, cùng với bà vợ và sáu trong số bảy người con, Borchers về sống ở Cộng hoà Dân chủ Đức. Tại đây, ông được xếp vào làm việc ở Ban Phi châu của Đài phát thanh quốc tế Berlin. Về mặt chính thức, Borchers được coi là một chiến sĩ chống phát xít và quốc tế chủ nghĩa, nhưng năm 1968, ông bị Đảng kỉ luật vì đã biểu lộ cảm tình với phong trào Mùa Xuân Praha. Một báo cáo của cơ quan Stasi hồi tháng tám 1968 ghi rằng Borchers thường tỏ ra “không quán triệt đường lối của Đảng ta”, liên tục “thắc mắc hoài nghi những mục tiêu” mà Đảng đề ra.[51]  Năm 1985, Borchers đốt sạch giấy tờ, ảnh chụp, rồi chạy sang Tây Berlin ở đó cho đến ngày ông chết (bốn năm sau). Còn người vợ cũ của ông, thì cách đây vài tuần, đã từ trần tại Berlin.

 Đại tướng Võ Nguyên Giáp nguyên là giáo sư sử học. Nghệ thuật quân sự, ông phải học từ A tới Z; tôi ngờ rằng trong quá trình tập sự ấy của tướng Giáp, có phần đóng góp của người bạn ông là Nguyễn Dân. Ernst Frey tham gia Việt Minh, được cử làm cố vấn quân sự cho tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp (các bạn của Frey, trong các thư từ trao đổi, thường gọi ông là Gottöberst, tức là người ở bên cạnh Thượng đế) và cho một nhân vật huyền thoại là tướng Nguyễn Sơn, “đối thủ” của Giáp. Khi được trao nhiệm vụ phụ trách Khu IX là khu vực bảo vệ ATK (An toàn khu, cơ sở của các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ), Frey trở thành uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng. Là một người ham thích quyền lực, đến năm 1949-50, khi các cố vấn Trung Quốc xuất hiện, Frey không thể không nhận ra rằng mình không còn cần thiết đối với Việt Minh như hồi 1945. Trong bản thảo để lại, Frey kể lại nỗi tuyệt vọng của mình trước bầu không khí khủng bố và chính sách thanh lọc bộ máy đảng, trước tình huống cuộc cách mạng bắt đầu ăn thịt những đứa con của chính mình. Cũng cần nói thêm: chính Frey đã ra lệnh (cho Walter Ullrich tức Hồ Chí Long) xử tử hai cựu binh lê dương bị tình nghi. Nhưng, như tôi đã nhấn mạnh ở phần trên, Frey mang nặng mặc cảm “cứu thế” –  ông toàn tâm toàn ý hiến thân cho giấc mộng ý thức hệ là cải tạo thế giới, một thế giới mà ông cho là “tính bản ác”. Căn bệnh cuồng loạn hưng phấn (hystérie enthousiaste) ấy ở Frey là do di truyền từ bà mẹ. Mặt khác, Frey có đủ dũng cảm để tự vấn triệt để một khi ông thấy là sự nghiệp tiến bộ mà ông từng phục vụ đã trở thành thoái bộ. Ở Việt Nam, tới thời điểm quyết định, Frey nhận thấy mình đang phục vụ cho cái Ác mặc dầu ông đã phục vụ với tất cả thiện ý. Frey là một thứ tu sĩ thừa sai, tin tưởng ở ngày Tận thế gần kề, thậm chí, như ông đã kể lại cuộc đấu tranh với quỷ dữ cho Pierre Sergent : “Tôi nhìn thấy mình đang vật lộn với bọn ác quỷ ngự trị để giải thoát nhân loại, như chúa Jesus vậy... Tôi biết, tôi ngộ”.[52]  Ông tự nhiên thấy những ảo ảnh hiển linh, bị mặc cảm tội lỗi dằn vặt, trong lòng như bị quỷ ám, và quyết tâm đi tìm sự cứu rỗi – cứu mình thoát khỏi chính mình, hay thoát khỏi một tình cảnh không lối thoát? –  trong sự tân tòng Công giáo. Thế là kết thúc vĩnh viễn thời kì cộng sản trong cuộc đời Ernst Frey. Tại Việt Nam, tôi được nghe kể là Frey trở thành vĩ cuồng, rồi phát điên. Tháng năm 1951, ông lên đường về Áo. Vài năm sau, trở thành con chiên sùng đạo. Vốn là người nhiệt tâm, tất nhiên ông phục vụ say sưa cho Giáo hội công giáo, “ngoài Giáo hội, không thể có cứu rỗi”.

 Như vậy là khi nhận thấy trong hàng ngũ Việt Minh, mình đã mất dần ảnh hưởng và trở thành vô dụng, Frey đã “phát điên”. Để tìm ra đáp án cho một thực tế quá đớn đau, ông đã chọn giải pháp tín ngưỡng. Đó cũng là cách giải quyết cùng một lúc hai vấn đề: rời Việt Nam và trở về nước. Thật vậy, tôi tự hỏi, muốn trở về và được chấp nhận, trong tình cảnh của E. Frey, phải chăng chỉ có một cách là trở về như một người “khác” – “khác” con người trước kia phải ra đi vì bị ruồng bỏ  – cụ thể là trở về như một tín đồ Công giáo sùng đạo. ‘Giải pháp’ này có ưu điểm là nó thoả mãn truyền thống văn hoá thống trị của nước Áo. Bằng sự ‘tái sinh’ trong niềm tin Công giáo, Frey có thể tìm ra chỗ đứng trong xã hội Vienna. Ở một cấp độ khác, theo đạo còn là cách tiếp tục cuộc thánh chiến thường trực mà ông đeo đuổi là giải thoát thế gian khỏi sự ngự trị của cái Ác.

 Về tới Vienna năm 1951, Frey đến trụ sở Đảng cộng sản để báo cáo về các hoạt động và chiến tích của mình từ năm 1938. Rồi ông lấy vợ, sinh được hai đứa con gái, sống bằng nghề đi chào hàng may dệt. Tại Vienna, quây quần chung quanh Frey là cả một lứa thanh niên say mê nghe ông kể chuyện quá khứ, coi ông là cha đẻ tinh thần, là mẫu mực chính trị. Chưa hết. Công việc chào hàng nay đây mai đó, đưa ông đi khắp các miền nước Áo và nước Đức, cũng là cơ may để ông thoát ra khỏi kiếp sống tiểu tư sản và thân phận một người kể chuyện. Thật ra, Frey có máu cờ bạc, đi chào hàng cũng là dịp đi khắp các sòng bạc. Trên thảm xanh của sòng bạc, chẳng hạn như sòng bạc Baden-Baden, nửa say nửa tỉnh, ông muốn tìm lại những cảm giác mạnh của những cuộc phiêu lưu mạo hiểm đã lùi vào quá vãng, mà nay ông muốn tái tạo trên chiếu bạc dưới con mắt dò xét của hồ lì. Vào những năm cuối đời, Frey bỏ đạo để hoạt động bảo vệ môi trường, rồi lại đùng đùng bỏ đảng xanh, về làm đầu bếp tại xứ đạo của một người bạn là linh mục Faust, làm việc quần quật để trang trải những món nợ sòng bạc. Ông từ trần năm 1994 tại Vienna, với lời trối trăng để lại cho hai người con gái: “Các con phải xuất bản cho được cuốn sách của bố”.

 Còn đối với Rudy Schröder, xác tín duy nhất của ông là sự phi lí của cuộc sống: không phải tình cờ mà ông đã nghiền ngẫm tác phẩm L’Être et le Néant (*). Trong thư viết ngày 29 tháng năm 1946 cho vợ, ông đề cập tới khả năng hai vợ chồng sẽ sinh sống ở Việt Nam. Tháng chạp 1946, khi chiến tranh bùng nổ, Schröder được phong trung tá, và tình nguyện xin ra tiền tuyến. Ngày 9 tháng tư 1948, tướng Giáp (bí danh Văn) viết thư mừng chiến công của Schröder : “J’apprends avec joie ton retour. Et avec beaucoup de plaisir le joli coup de main que tu as dirigé contre les Tho Phi… Cordialement ton Van.”[53] (dịch từ nguyên bản tiếng Pháp : “Tôi vui mừng được tin anh trở về [từ tiền tuyến]. Và rất thú vị thấy anh đã giáng cho bọn thổ phỉ một cú ngoạn mục... Thân mến, Văn”). Sau đó, ông được phân công làm địch vận. Tham gia mặt trận Lạng Sơn, ông được trao nhiệm vụ chỉ huy Biệt đội Tell, một thứ quân Lê Dương của Việt Nam, gồm những tù binh đã tình nguyện thành hàng binh. Khuôn khổ bài này không cho phép tôi đề cập tới các vấn đề liên quan tới đơn vị này – vả lại nó không được vũ trang đầy đủ, ăn mặc thiếu thốn, nhiệm vụ vạch ra không rõ ràng, nên chẳng mấy lúc đã thất vọng... một chứng nhân của thời kì này, hoạ sĩ kiêm nhà văn Trần Duy, cho tôi biết những người lính lê dương cũ này đã trở thành mối hoạ cho dân chúng địa phương, cưỡng hiếp đàn bà con gái, giết cả trâu cày của nông dân.[54]  Schröder tin chắc là đã xảy ra một cuộc bạo loạn và âm mưu quay về phía Pháp, nên đã thành lập toà án quân sự và cho xử tử hình sáu người mặc dầu trong bản khai lí lịch tháng mười một 1951, ông thừa nhận rằng “quyết định này vượt quá quyền hạn sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam của tôi”.[55]  Ông bị Đảng phê bình. Và đó cũng là nguyên nhân tại sao – hay cũng chỉ là cái cớ – ông không còn được tướng Giáp sủng đãi nữa.

 Các cuốn nhật kí viết ở Việt Bắc của Schröder là nguồn tư liệu quý giá giúp ta hiểu nhiều điều, đặc biệt là mối quan hệ giữa hàng binh người Âu và các đồng chí Việt Nam của họ. Schröder “cảm thấy bị bỏ rơi như một người làm công bị sa thải vậy”. Tháng tám 1951 ông rời Việt Nam, tháng mười một về tới Cộng hoà Dân chủ Đức, dạy Đức văn và lịch sử trong một trường trung học ở thành phố Dresden. Năm 1953, ông kí hợp đồng làm việt cho cơ quan mật vụ Stasi.[56]  Nhiệm vụ của ông là báo cáo về “những phần tử tiêu biểu trong giới trí thức”, nghĩa là về những đồng nghiệp và học trò của mình, cũng như về bạn bè cũ trong đội quân Lê Dương. Tôi đã được đọc những bản báo cáo này và có thể kết luận Schröder không hề tố cáo ai cả. Ngược lại, trên những trang viết ấy, ông từng bước phê phán chế độ và biểu lộ sự nôn nóng, tuyệt vọng của mình về hoàn cảnh cuộc sống. Vào cuối thập niên 1950, ông bị “khó khăn chính trị” và mất việc. Sau đó ông làm thợ tiện trong nhà máy; cuối năm 1959 cùng với người vợ trẻ, trốn sang Tây Đức. Hi vọng làm báo không thành, cuối cùng Schröder phải nhận một chỗ dạy Pháp văn tại một trường tư ở Frankfurt trên sông Main với đồng lương bạc bẽo. Tháng giêng 1977, ông chết trong cô đơn, tuyệt vọng, nhưng đến giờ phút cuối cùng, Schröder vẫn tiếp tục viết.

 Tình cảnh của Frey, Borchers và Schröder minh hoạ thảm kịch cùng cực của con người sống giữa hai trận tuyến, Zwischenfrontmensch.  Năm 1945, Việt Minh nồng nhiệt nhận đón Frey và các bạn ông. Với sở trường về tuyên truyền, tổ chức, hiểu biết kĩ thuật và quân sự về mặt lí thuyết cũng như trong thực hành, họ đã giúp ích cho Việt Minh. Song, sau thắng lợi của chiến dịch biên giới đông bắc năm 1950, tình hình thay đổi hoàn toàn với sự có mặt đông đảo của các cố vấn Trung Quốc, từ đó bắt đầu một quá trình “cải tạo cộng sản chủ nghĩa” trong một phong trào cho đến lúc ấy vẫn mang sắc thái của một mặt trận nhân dân. Từ nay, cố vấn Trung Quốc mới là đồng chí cách mạng quốc tế chủ nghĩa, còn hàng binh Âu châu là người ngoại quốc, người ngoài, là những kẻ đào tẩu từ hàng ngũ quân địch. Cuối cùng, cái gọi là mối mâu thuần “hiện sinh” giữa những người dân thuộc địa và những người da trắng khiến cho người ta không thể tín nhiệm người Âu[57] bởi vì họ sống “không hài hoà” với quê hương hay với bản sắc của họ; trong con mắt Việt Nam, họ sẽ không bao giờ vượt qua được mâu thuẫn cơ bản đó, đơn giản vì họ không phải là người Việt! Không những thế, họ là những người có đầu óc phê phán, không bao giờ chịu ngoan ngoãn thi hành chỉ thị của Đảng mà không thảo luận, phản biện. Trong cuộc gặp ở Ban chấp hành Trung ương ngày 15 tháng tám 1950, anh Thận (tức là Trường Chinh) đánh giá họ là “thiếu bồi dưỡng về mặt tư tưởng, và có biểu hiện... chủ nghĩa sô-vanh”.  Schröder coi câu nói đó là một lời Hinauswurf, cho “về chơi xơi nước”.[58]  Phải nói là ở thời điểm ấy, nhiệt tình cách mạng của mùa thu 1945 nhờ đó họ gắn bó khắng khít với nhau trong mấy năm trời nay đã nguội lạnh. Cuối năm 1950, Frey, Schröder, Borchers, Wächter và Ullrich ăn mừng Lễ giáng sinh với nhau, và chính những ngày sống chung này đã “rọi sáng những mối quan hệ giả tạo, thậm chí dối trá” giữa họ với nhau, và cho thấy rõ “sự nối kết tạm bợ giữa họ với nhau không xuất phát từ mục đích chung và hoạt động chung, mà chỉ vì họ cùng chống đối”.[59]  Chính vì thế mà từ năm 1954 trở về sau, chỉ vài ba người Âu còn ở lại Việt Nam...

 Nói theo hình tượng của Adorno, Frey Schröder và Borchers xuất thân từ “cuộc đời thương tổn”. Họ là những con người bị bầm giập, mang đầy thương tích, bị bứt khỏi những ước vọng gia đình, sự nghiệp, dân tộc, bị ném vào một thế giới thù nghịch và phi lí. Trong cơ ngũ Lê Dương, cái không khí “đại đồng”, những “tận tâm, tình đồng đội, cảm giác mạnh mẽ”[60] chỉ có trong những tờ rơi tuyên truyền tuyển mộ, và hoàn toàn vắng bóng trong thực tế hàng ngày làm bằng sự tuân phục, bạo hành và đơn điệu – vả lại, họ là những người lính ở ngoài mọi khuôn mẫu. Cách mạng Việt Minh hiện ra trong mắt những con người đang thèm khát hành động vì chính nghĩa ấy như một dự phóng về tiến bộ thuận chiều lịch sử, đồng thời hứa hẹn mang lại cho họ một quê hương, tổ quốc. Họ sẵn sàng thuần phục cá tính vì giấc mơ kiến tạo một xã hội nhân bản hơn, để rồi cuối cùng phát hiện ra rằng họ lại sa vào cạm bẫy cực quyền đòi hỏi họ hiến dâng tất cả mà không mảy may khoan thứ những dị biệt cá nhân. Trong nhật kí tháng hai 1951, Schröder chua chát ghi lại: “Giả sử bây giờ ông già râu phán một câu: ‘Cái giẻ trắng mà các chú thấy kia màu đen’, mọi người sẽ tin là thế; cán bộ sẽ coi đó là kinh thánh. Chuyện ấy đã tững xảy ra đâu đó rồi. Goebbels còn xạo gấp mấy, nhưng người dân Đức có lẽ vì thích tự thôi miên tập thể, đã tin lời Goebbels. Ở đây, người ta còn đi xa hơn nữa: họ tự thuyết phục và xác quyết là từ trước đến nay họ vẫn tin rằng cái giẻ trắng kia màu đen. Điều đó, người Đức làm không nổi. Bởi vì họ ý thức được rằng trước thời quốc xã, mọi sự không như H(itler) và G(oebbel nói”. Tự do mà họ ước mong hiện nguyên hình độc tài. Không những thế, họ đã hăng hái góp phần vào đó. Ở đây, tôi không thể đi sâu để bàn về những động cơ đã thúc đẩy họ, các hoạt động của họ, và cũng không thể tìm hiểu họ ý thức tới mức nào về những hậu quả sự chọn lựa lúc đó của họ. “Tôi đã sống hoà điệu với chính tôi”, nhiều năm sau, một người trong họ đã viết như vậy.[61]  Thay mặt mọi người, và vẫn giữ quyền tự do của mình để tố cáo chế độ độc tài.

 Song họ vẫn ở “giữa hai trận tuyến”. Schröder, Frey và Borchers là những người tranh đấu và những trí thức. Tranh đấu và chiến đấu ngoài mặt trận không phải do tạng người hay tâm tính, mà là do hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy. Dẫu sao, hành trình của họ cũng phù hợp với truyền thống nho sĩ / tráng sĩ Việt Nam mà tiêu biểu là Nguyễn Trãi (1380-1442), bên trung bên hiếu, đã chọn chữ trung. Và họ cũng không khác các đồng chí Việt Nam của họ đã tạm thời phải biến thành những quán quân của một thứ chủ thuyết “thiên niên kỉ” (millénarisme)  mác xít đi trước cả Frantz Fanon. Qua trải nghiệm thực tiễn, họ phân tích nghĩa quốc gia (xã hội) và từ đó dấn thân vào cuộc đấu tranh chống thực dân. Tới khi nhận diện Nhà nước toàn trị là nguồn gốc của mọi sự đàn áp, thì ngay từ năm 1950, họ mất hết ảo tưởng về chủ nghĩa xã hội của Bắc Việt Nam. Nguyễn Đình Thi, nguyên tổng thư kí Hội Văn hoá cứu quốc (thập niên 1940), ít lâu trước khi từ trần, đã phát biểu như sau : Schröder và Boudarel “gặp vấn đề khi họ phải chấp nhận tôn ti trật tự của Đảng”.[62]  ĐCS Việt Nam, trong cao trào cách mạng, đã để họ ở lại bên lề đường khi không cần tới họ nữa. Và đời họ thêm một lần tàn tạ.

Heinz Schütte
Paris, 24 décembre 2003

138 rue La Fayette
75010 Paris
tél/fax: 01.42.09.44.75

e-mail:
heinzschutte@hotmail.com
                        

(Nguyễn Ngọc Giao biên dịch từ nguyên tác tiếng Pháp)

(*) Hiện hữu và Hư vô, tác phẩm triết học của Jean-Paul Sartre (công bố năm 1943). Theo Heinz Schütte, một thành viên của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau (mùa hè 1946), bạn của Rudy Schröder, đã mang về Hà Nội cho ông một bản (chú thích của N.D.)

Chú thích của Thời Đại Mới: Độc giả có thể xem thêm bài Cha tôi, giữa những quê hương của Claudia Việt-Đức Borchers (http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=1529&rb=0401&von=)
 

[1] Bài này (có sửa lại chút ít) đã được trình bày tại cuộc hội thảo về những hàng binh người Đức đi theo Việt Minh (thập niên 1940-50) tổ chức tại Viện Goethe (Hà Nội) trong hai ngày 8 và 9 tháng giêng 2004.

[2] Kính tặng hương hồn Georges Boudarel (GB). Cuộc đời của GB in sâu dấu ấn của Việt Nam kể từ năm 1949 khi ông 24 tuổi. Trong những năm qua, ông đã khuyến khích tôi tiếp tục nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong tinh thần mà ông vẫn theo đuổi : đoàn kết phê phán. Militant và học giả, GB là một trong những người Pháp đầu tiên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

[3] Điện của E. Honecker gửi Nguyễn Văn Hướng, đại diện Việt Nam ở Praha, 20 tháng hai 1950. Thư khố quốc gia Bundesarchiv (BA) : DY 24/3691

[4] Leo Zuckermann gửi Wilhelm Pieck, Berlin 9 tháng sáu 1950. BA : NY 4182/1269

[5] W. Ulbricht gửi Hermann Axen, 29 tháng ba 1951. BA : NY 4182/1269

[6] Bộ trưởng Mielke gửi Tổng thanh tra Gutsche. Berlin, 5 tháng tư 1951. Bundesbeauftragter für die Unterlagen des Staatssicherheitsdienstes der ehemaligen Deutschen Demokratischen Republik (Thư khố của Bộ công an cũ Stasi) (B St U) : MfS-BdL/Dok. Nr. 003670

[7] Verwaltung Gross-Berlin, Abtlg. II, gez. Herbst, tháng hai 1957, Arbeitsrichtlinie. B St U : MfS AS 1310/67, trang 000015

[8] Nhật kí của R. Schröder 6 juillet, 6 tháng tám và 23 tháng chạp 1950. Fonds Maria Schröder (FMS)

[9] Eckart Michels, Deutsche in der Fremdenlegion. Mythen und Realitäten. Paderborn 1999, tr. 160

[10] BA: NY 4090/488

[11] Peter Scholl-Latour, Der Tod im Reisfeld. Dreißig Jahre Krieg in Indochina. München 1988, tr. 29.

[12] Wilhelm Reschl, Europas letzte Söldner, in : DAMALS, 2/96, tr. 69.

[13] Jean-Luc Einaudi, Viêt-Nam! La guerre d’Indochine (1945-1954), Paris 2001, tr. 133.

[14] Jean-Pierre Hallo, Monsieur Légionnaire. L’homme et ses traditions. Paris 1994, tr. 29, trích dẫn theo Michels, sđd., tr. 190.

[15] Michels, sđd., tr. 104

[16] Michels, sđd., tr. 119 và 164

[17] Raymond Aron, Mémoires, Paris, Julliard 1983, tr. 72/73

[18] FMS

[19] Lebenslauf des Schröder, Reiner, Josef, Rudy. Berlin 9 tháng mười một 1951, in: B St U: Ddn. AIM 808/59, tr.000058-000063

[20] Leo Spitzer gửi Raymond Aron. Cologne 24 tháng chín 1933, trong : Thư khố riêng của Raymond Aron, hộp 209, với sự cho phép của Dominique Schnapper và Elisabeth Dutartre.

[21] Klaus Brill gửi Max Horkheimer, New York. Paris 31 tháng ba 1936, trong: Max Horkheimer, Gesammelte Schriften, vol. 15: Briefwechsel 1913-1936. Frankfurt am Main 1995, tr. 504

[22] Max Horkheimer gửi Raymond Aron, Paris. New York 20 tháng mười một 1936, trong: Horkheimer, sđd., tr. 729

[23] Reinhold Schneider, Verhüllter Tag, Köln 1962, tr. 164

[24] Bà mẹ của Erwin Borchers cũng bị ông cụ thân sinh truất quyền thừa kế vì đã lấy một tên Phổ bẩn thỉu(Saupreuße). Thông báo miệng của Lilo Ludwig, em gái Borchers, Berlin 28 tháng sáu 2003.

[25] Lebenslauf. Berlin 14 mai 1966, trong : B St U : MfS AP 14061/73, trang 000008

[26] S. P. 554, 6 tháng bảy 1940; trong: Fonds Philippe Delaunay (FPD)

[27] R. Schröder gửi Hilde Schröder, 23 tháng chín 1940, Bel-Abbès 16 tháng hai 1941 và Bel-Abbès 27 tháng hai 1941

[28] Michels, sđd, tr. 136

[29] Raymond Aron, Lời tựa, trong: André Thérive, Essai sur les Trahisons, Calman-Lévy, Paris 1951, tr. XIV

[30] Thư Schröder gửi vợ, 1 tháng tám 1941, trong : FPD

[31] Jean Lacouture, Hô Chi Minh. Seuil, Paris 1967, tr. 115

[32] Bản thảo đánh máy của Schröder 260 trang không tựa đề (MS), FMS, tr. 58

[33] MS, p. 174

[34] Lax-Giroud, Les Oubliés d’Annam, édition intégrale, Aire Libre, Dupuis (1990 et 1991) 2000, tr. 54-55

[35] Ernst Frey, Vietnam mon amour. Ein Wiener Jude im Dienst von Hô Chi Minh, nhà xuất bản Doris Sottopietra, Vienne 22002, tr. 64 et 94. Frey muốn theo học hoá học kĩ thuật

[36] như trên., tr. 118/119, 121, 170

[37] Ferry Stern, Und ist es auch Wahnsinn, tr. 655. – Đây nguyên thuỷ là bản thảo 1216 tranh đánh máy của Frey, được FS biên tập và xuất bản..

[38] Stern, sđd., tr. 692-726

[39] Borchers, Lebenslauf, tr. 000010/11

[40] Stern, sđd., tr. 704

[41] Schröder, MS, tr. 113

[42] như trên, tr. 117

[43] Stern, sđd, tr. 793

[44] Schröder, MS, tr. 58

[45] Gérard Tongas, J’ai vécu dans l’enfer communiste au Nord Viêt-Nam. Les nouvelles éditions Debresse, Paris 1960, tr. 173

[46] Arkady Fiedler, Im Lande der wilden Bananen, VEB F.A. Brockhaus Verlag,  Leipzig 1959, tr. 170

[47] Margret Boveri, Verrat im 2o. Jahrhundert, I – Für und gegen die Nation, Rowohlt, Hamburg 1956, tr.111

[48] Frey, sđd., tr. 206

[49] Jacques Doyon, Les Soldats Blancs de Hô Chi Minh, Fayard, Paris 1973

[50] Frey, sđd., tr. 206; Schröder, MS, tr. 60

[51] B St U : MfS FV 2/71, tr. 000011

[52] Pierre Sergent, Un Étrange Monsieur Frey, Fayard, Paris 1982, tr. 305, 309

[53] FMS

[54] Hỏi chuyện Trần Duy, Hà Nội, ngày 18 tháng mười 2002

[55] Lebenslauf, tr. 000062. – Trong các hồ sơ của Stasi, có nhiều lính Lê Dương cũ tố cáo Schröder… Trong một cuốn sổ nhật kí nhỏ tí, S ghi  trong khi thi hành kỉ luật, biệt đội ‘T’ không có biểu hiện hoảng loạn , và hôm sau :  Từ 7g đến 4g chiều, viết ‘tự bạch’ và thư gửi TW , 11 và 12 tháng sáu 1949.

[56] B St U: Ddn. AIM 808/59 – Personalakte

[57] Hỏi chuyện Hữu Ngọc, Hà Nội, ngày 18 tháng năm 1999.

[58] Nhật kí Schröder ngày 18 tháng tám 1950

[59] Thư của NEX (Borchers) gửi Kerkhof, 28 tháng hai 1951, FMS

[60] Boveri, I, sđd., tr. 35

[61] Rudolf Schröder, In partibus infidelium, bản thảo, tr. 15, FMS

[62] Hỏi chuyện Nguyễn Đình Thi, Hà Nội, ngày 21 tháng mười 2002.

 

 

©  Thời Đại Mới

 

Trở về trang chủ Thời Đại Mới