Số 4 - Tháng 3/2005
Tể tướng và
nhà thơ Nguyễn Văn Giai
Nguyễn Huệ Chi
Nếu xét về văn nghiệp, Nguyễn Văn Giai chỉ còn để lại bốn bài thơ nôm, ít nhiều chưa thật chắc chắn về xuất xứ. Nhưng đó là bốn bài thơ đặc sắc, có giọng điệu và phong cách nghệ thuật khá nhất quán, mà đặt trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, chỉ chừng ấy thôi đã là một vốn quý của dòng thơ tiếng Việt với số lượng tác giả còn hết sức hiếm hoi. Mặt khác, việc tìm hiểu thơ nôm của Nguyễn Văn Giai không phải là chủ điểm duy nhất của bài này. Bởi tên tuổi ông đã đi vào sử sách như một bậc tể phụ đầu triều lừng lẫy cách đây hơn bốn trăm năm. Lừng lẫy đến mức xung quanh ông có cả một kho huyền thoại được thêu dệt ngay lúc ông còn sống và cứ thế lưu truyền đan xen với sự thật. Vì thế, cả huyền thoại lẫn thơ ca của ông từ lâu đã đan kết với nhau, tạo nên một hiện tượng phức hợp, một hiện tượng “văn sử bất phân”, cần được giải mã. May mắn cho người viết - một hậu sinh có cái vinh dự là người đồng hương với ông, đã được đọc tận mắt tấm bia ghi sự nghiệp của ông do đích thân vua Lê cho dựng lên mấy chục năm sau ngày ông mất, tấm bia cao lớn hiện còn tọa lạc ở xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nơi sinh quán của ông [1]. Cũng may mắn cho người viết, đã được tiếp xúc với các bậc trưởng thượng chi họ Nguyễn Văn, hậu duệ của ông ở xã Ích Hậu, và nhờ đó mà có dịp đối chiếu mấy bản gia phả cổ của dòng họ này, bắt nguồn từ nhiều bộ thực lục đời Lê và được chép lại vào năm thứ 2 dưới đời Minh Mạng (1821), năm thứ 3 dưới đời Thành Thái (1891) và năm thứ 9 cũng dưới đời Thành Thái (1897). Những gì viết dưới đây là sự phối hợp tất cả những tài liệu thông sử, địa chí, truyện ký, thơ văn với văn bia, phả ký [2]... đó, tuy không hy vọng có thể làm sống dậy một hình bóng đã từng hiện diện với đầy đủ mọi chi tiết sống thực, nhưng ít nhất cũng cố gắng dõi theo nhiều chiều kích khác nhau trên con đường “thiêng hóa” con người này trong lịch sử, nhằm soi tỏ đôi ba nét điển hình nhất, liên quan đến môi trường địa-văn hóa cũng như bản sắc riêng của nhân vật - nói cụ thể hơn là đi tìm một chân dung văn học ẩn hiện thấp thoáng giữa hai xu hướng phóng chiếu trái ngược của truyền thuyết: xu hướng Nho giáo muốn vẽ ông như một tín đồ của Đạo Thánh và xu hướng dân gian muốn tô đậm ở ông những môtip gần gũi với đời sống. * Nguyễn Văn Giai sở dĩ được sĩ phu Lê-Trịnh nhiều đời tôn xưng là một công thần bậc nhất bởi ông là người trực tiếp tham dự vào công cuộc đánh Mạc, khôi phục lại cái ngai vàng cho nhà Lê. Nhưng ông tham gia dẹp Mạc không phải ở tư cách một “võ biền” thuần túy mà là một trí thức có văn tài, một vị Giải nguyên của chính nhà Mạc rồi lại là một vị Tam nguyên của nhà Lê trung hưng. Ông vừa là tướng võ vừa là tướng văn, hai lần hộ giá Lê Thế Tông (1573-1599) lên tận biên giới để giải quyết những vấn đề ngoại giao hết sức tế nhị với Trung Quốc, và cũng là người kiên định phù Lê ngay từ buổi đầu [3], không nay thay mai đổi như phần đông tướng lĩnh và sĩ phu thời ấy thường bị dao động giữa ba lực hút Mạc - Lê/Trịnh - Nguyễn, tự gây cho mình thân phận những “con lắc” trong một thời gian khá dài. Nhờ đó ông có được tiếng nói đĩnh đạc giữa Triều đình nhà Lê khi vừa mới khôi phục, dám tâu thẳng với các chúa Trịnh những điều “khó nói” bằng chính “cái giọng Nghệ - Tĩnh trọ trẹ” [4] mà không chút mặc cảm, nhằm kín đáo ngăn cản âm mưu của các chúa Trịnh lấn lướt ngôi Lê. Khỏi phải nói, dưới con mắt các thế hệ chính khách lớp sau, tư cách của ông trở nên sừng sững, vượt lên hẳn đám triều thần Lê mạt thường chỉ biết nhẫn nhục nín hơi lặng tiếng, hoặc hóng gió bắt bóng theo đóm ăn tàn. Cũng vì thế không phải là khó hiểu khi một bộ phận truyền thuyết nhà nho cố tình trùm phủ cái bóng kỳ vĩ theo kích thước một “Thánh nhân đạo Khổng” lên cuộc đời thực của ông. Nhưng ông lại cũng là một người xuất thân bình dân và giữ được trong mình nét cốt cách bình dân ngay cả sau khi đã trở thành một bậc công thần hiển hách. Chính đó là nguyên do để dân gian truyền tụng và cũng khoác vào cho ông vô số mảng truyền thuyết dân gian có phần đối trọng với truyền thuyết nhà nho. Có thể nói ông là một mẫu người tương đối tiêu biểu để chúng ta khảo sát quy luật truyền thuyết hóa tiểu sử nhân vật ở phương Đông và Việt Nam, nó có khác với sự truyền thuyết hóa ở phương Tây chủ yếu được phát huy theo con đường tô đậm huyền thoại về các vị anh hùng gắn liền với Thánh tích Thiên chúa giáo, “đồng nhất với sinh hoạt Nhà Thờ, trụ vững trong các buổi thuyết giáo, thông qua lời cầu nguyện, nghi lễ và những Thánh lễ” (Encarta, mục “Tradition”, 2003). Cuộc đời của Nguyễn Văn Giai là cả một pho sử sống của một con người biết cật lực phấn đấu để chiến thắng số phận. Sinh ra vào đêm 22 tháng Chạp năm Giáp dần, tức 14 tháng Giêng năm 1555, ông là người của một vùng quê quanh năm nghèo đói mà tên gọi bấy giờ là Phù Lưu trường, thuộc huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An, nay là xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Phù Lưu trường sau đổi là xã Mỹ Tường, là một trong ba xã nhỏ nằm bao quanh một cồn cát trên đó hình như xưa kia chỉ mọc toàn một loại cây mà người ta dùng để làm chổi xể nên có tên là Cồn Chủi / chổi đọc theo giọng Nghệ. Sau này phần đất của xã Mỹ Tường có cắt bớt đi, chia về cho một vài xã lân cận, còn phần chính thì hợp cùng hai xã nằm quanh Cồn Chủi thành một xã lớn và lấy luôn tên Ba Xã làm tên. Ba Xã nằm cách biển khoảng 7 cây số, có một nhánh sông chảy qua, ăn thông với con sông lớn ở bến đò Kênh Cạn, chạy suốt ra cửa biển Nam Giới tức Cửa Sót, là điểm mút giao thông giữa đường bộ và đường biển trên con đường đi đánh dẹp “Nam man” của các vua chúa thời Lý, Trần, Lê. Nhưng nơi đây trong nhiều thế kỷ cũng là mảnh đất để cho quân Chiêm Thành thỉnh thoảng tràn sang cướp phá, và còn là bãi chiến trường đẫm máu giữa quân Việt Đàng Ngoài và quân Việt Đàng Trong từng chà đi xát lại không biết bao nhiêu lần thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Vì nhánh sông chảy qua Ba Xã ăn thông ra biển nên mỗi khi triều lên, nước mặn cũng theo sông tràn lên, làm ngập mặn hết các cánh đồng trũng viền lấy mé Đông Cồn Chủi. Trong tình cảnh như vậy, câu chuyện sinh kế của người dân Ba Xã luôn luôn là chuyện bức xúc không phải cho một thế hệ mà triền miên từ đời này qua đời khác. Người Ba Xã làm ruộng quanh năm không bao giờ đủ sống, thành thử đã phải tỏa đi khắp nơi làm đủ các nghề: gánh cá thuê, đi ở mướn, chạy hàng xách, đi chặt cây bổi trên triền núi Hồng Lĩnh về bán gọi là “đi rú”, hoặc lên tận những cánh rừng giáp với Lào ở mạn Hương Khê chặt nứa đóng bè thả về xuôi gọi là “ngược ngàn”... Và rồi không hiểu từ bao giờ đã phát sinh ra một cái nghề cha truyền con nối là nghề... hành khất. Trừ những ngày mùa, ngày giỗ chạp, người dân Ba Xã thường dắt díu nhau đi tha phương cầu thực ở khắp mọi nơi, nhưng nhiều nhất là vùng Đông Thành tức Yên Thành, xưa kia là vựa lúa của Nghệ An: “Đông Thành là mẹ là cha / Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành”. Nghề hành khất thuở ban đầu cố nhiên là việc làm bất đắc dĩ của hạng người túng đói. Nhưng rồi kéo dài qua vô số năm tháng, lần hồi nó đã trở nên một thứ tập tục, thậm chí một thứ tín ngưỡng ăn sâu vào tâm linh của cả một vùng. Người ta tin rằng ông tổ của làng thuở xưa ngẫu nhiên được táng vào một khu đất mà con cháu về sau phải nối đời lấy bị gậy làm nghiệp. Bởi thế, có người giàu có hẳn hoi cũng mỗi năm một đôi lần đóng vai khất thực :
Ăn mày không còn là một việc gì nhục nhã mà đã như một thói quen, một thứ triết lý sống dân gian để cho mỗi người có dịp đặt mình xuống địa vị thấp hèn, nếm trải cho đủ mọi dư vị đắng cay của nhân thế. Chính Nguyễn Văn Giai cũng thừa hưởng được cái triết lý giàu chất hài hước--nhân bản đó của quê hương bản quán. Sau này, khi đã ở vào vị trí một bậc tể phụ, ông vẫn không đánh mất quan niệm sống cân bằng “có vinh cũng cần có nhục” đã in sâu nơi tâm khảm, nó được biểu hiện trong một bài thơ tự trào của ông, nhằm đùa cợt với chính địa vị của mình :
Cả bài thơ là một chuỗi cười ngạo nghễ của người tuy già mà vẫn tự tin rằng mình còn rất khỏe (Trên chửa lung lay: hàm răng đang đủ sức nhai để cơ thể chưa đến nỗi rệu rã; dưới chửa mòn: và cái khoản ấy cũng đang giàu sinh lực lắm), quan trọng hơn nữa là già mà vẫn rất tỉnh -- dám gọi xách mé các đời vua chúa thuở bấy giờ bằng những con số trống không để tính đếm như tính đếm đám con của mình. Nhưng cái ý vị triết lý thâm thúy nổi đậm nhất là ở hai câu 5 và 6: Dẫu là kẻ tứ chiếng giang hồ quanh năm mang bị gậy, hay là người khoác cân đai nơi lang miếu của Triều đình, tưởng là hai nẻo trời đối cực đấy, thì cuối cùng, khi đậy nắp quan tài lại, cũng chỉ là một hòn đất như nhau. Hai câu thơ cho thấy cái nhìn cởi mở, bình đẳng của Nguyễn Văn Giai trước mọi loại người, mọi nghề nghiệp sang hèn cao thấp ở đời. Với thủ pháp tiểu đối hai cặp từ kép trong mỗi câu (giang hồ/lang miếu; bị gậy/cân đai), hợp hai câu lại thành hai vế đối hoàn chỉnh, với cách ngắt nhịp 2/2/3 chậm rãi, hai câu thơ được Nguyễn Văn Giai dồn toàn bộ trọng lực vào đấy, như một cách nói nhẩn nha, không cố ý to tiếng, thế mà mỗi tiếng đều gieo vào lòng người đọc một âm vang chắc nịch, khiến ta thấm dần cái chân lý mà nhà thơ đưa ra, không cãi vào đâu được, để rồi chấm dứt bằng một thanh trầm rơi hẳn xuống, làm ta sững sờ vì cái kết cục quá đúng: đất một hòn. Cũng cảm hứng này còn trở lại với ông trong bài Đèn kéo quân thâm trầm và chua chát hơn nữa:
Phải sinh ra ở một vùng đất đầy ăn mày như Ba Xã rồi trở thành một vị quan lớn, Nguyễn Văn Giai mới có thể thấm thía trò đùa trớ trêu của số mệnh trong việc chuyển đổi thân phận dễ như bỡn giữa quan và ăn mày. Tuy nhiên, điều sâu kín hơn mà ông muốn gửi gắm là trong một cơ chế xã hội lỏng lẻo mà sự vận hành luôn luôn có trục trặc - do chiến tranh, loạn lạc, uy tín của người cầm cân nẩy mực sụt giảm nghiêm trọng và nhiều nguyên cớ khác - thì thân phận giữa quan và ăn mày nhiều khi lại không khác gì nhau, không phải bên này là điều kiện tồn tại của bên kia mà kỳ thực, sự tồn tại của cả hai đều trở nên vô nghĩa :
Bài thơ chỉ có bốn câu, chữ nghĩa khá dung dị, song hai từ ăn mày và quan được lặp lại một cách có dụng ý mô phỏng phép thủ vĩ ngâm tự nó đã trở thành một sức mạnh nghệ thuật nội tại, làm toát lên cái ý tứ sâu xa về sự quẩn quanh, dẫm chân tại chỗ, xoay trở đường nào cũng không lối thoát, trong cuộc nhân sinh chỉ thấy toàn chết chóc, tranh giành giữa phe này phái nọ mà thôi. Ở câu đầu, hai cặp từ một lũ được nhắc lại hai lần, biểu thị cái ý khinh miệt, đặt “quan” vào cùng một địa vị với “ăn mày”. Và sự khinh miệt càng tăng lên tột mức ở hai câu cuối, khi tác giả thay chỗ cho hai cặp từ một lũ bằng hai cặp từ chẳng thấy cũng nhắc đi nhắc lại, như một thứ lộng ngôn hoàn toàn phủ định: Chẳng thấy ăn mày chẳng thấy quan! Tâm sự nung nấu của Nguyễn Văn Giai sau ngày bình xong nhà Mạc, chứng kiến tình cảnh điêu đứng của dân chúng và sự tha hóa quá nhanh của tập đoàn Lê-Trịnh, và việc ông mấy lần cáo lão xin về mà không được, chứa đựng cả trong bốn câu thơ tưởng chừng chỉ là thơ “vịnh vật” đơn giản này. Nhưng trong suốt cả một thời trai trẻ cho đến khi đạt được sự nghiệp hiển hách, Nguyễn Văn Giai lại không hề là người yếm thế bi quan. Trái lại, ở ông, cá tính quật cường bộc lộ ngay từ thuở nhỏ. Tiên tổ ông khi còn thuộc dòng trực hệ ông Nguyễn Công Quyền, Tri phủ Diễn Châu vào khoảng đời Trần, đã từng nhiều đời có người đỗ đạt lớn [7]. Nhưng đến đời thân phụ, ông Nguyễn Văn Củng, thì chỉ còn là một anh khóa sinh nghèo. Học hành dở dang, ông phải tìm đến Cồn Chủi vỡ một mảnh đất hoang để dựng nhà trú ngụ. Và Nguyễn Văn Giai đã sinh ra trên chính mảnh đất cồn khô cát trắng này. Tuy nghèo, người bố vẫn gắng chắt bóp cho con theo học. May sao Nguyễn Văn Giai là đứa trẻ đặc biệt thông tuệ, 5 tuổi đã biết chữ, 9 tuổi biết làm văn, 15 tuổi viết bài phú Con trâu trong nghiên mực (Nghiễn trì ngưu phú) nổi tiếng là thần đồng. Lại thêm một may mắn trời cho: ông là người có vóc dáng cao lớn, sức khỏe hơn người, hàng ngày vẫn giúp bố mẹ làm ruộng, và cày mướn cuốc thuê để kiếm hai bữa cơm, tối đến mới vùi đầu vào sách vở. Thỉnh thoảng ông còn đi gánh hàng ở các chợ xa hàng chục cây số lấy tiền mua sắm dầu đèn giấy bút. Theo sách Tang thương ngẫu lục, “một hôm đi gánh thuê về, trời nóng bức, ông lội xuống tắm ở cái ao trước cửa nhà thầy học cùng làng. Trong lúc đang bơi lội, quần áo trên bờ bị đứa vô lại nào lấy mất, ông phải ngâm mình dưới nước mãi không dám lên. Bên kia ao là nhà một ông Giám sinh, có cô con gái ra ao định giặt, nhưng thấy ông đương tắm đành phải quay vào. Một lúc nữa trở ra lại thấy như vậy. Rồi một lúc nữa, cô ra loanh quanh ở bờ ao, bỏ lại trên bờ mấy chục thước vải. Ông biết ý, rất cảm kích, trở lên lấy vải ấy đóng khố rồi đi về nhà. Về sau khi đã thi đỗ, ông đến nhà ông Giám sinh, xin hỏi cô gái làm vợ. Ông Giám sinh nói: “Con bé vô duyên, hôm qua tôi đã trót nhận lời gả cho một cậu học trò của tôi, cũng là bạn đồng khoa của anh đấy. Xin anh đừng lấy làm lạ sao tôi lại từ chối”. Đang lúc trò chuyện thì ông đồng khoa kia đến, hai bên tranh biện mãi không giải quyết xong. Ông nói: “Tôi vốn đã có vợ từ lâu, không phải dám tham sắc đẹp để mua cười với bạn. Chỉ vì thuở còn hàn vi từng được người khuê các để mắt xanh đến, nên tôi đã dốc lòng yêu thương từ đấy. Trời đất quỷ thần hẳn đều soi xét, lòng này có dám mạo muội đâu”. Nhân đấy kể rõ câu chuyện ngày xưa. Ông Giám sinh bèn vào nhà trong hỏi con gái thì con cũng nói như vậy, rốt cuộc đổi ý, vui lòng đem cô gái gả cho ông Giai. Đó là bà phu nhân thứ ba, ông yêu quý như bà cả vậy”. Câu chuyện tình duyên ngẫu nhiên mà thật cảm động, về phía dân gian, như muốn gửi gắm cái ý: nhân vật mà mình tôn xưng ở đây là con người biết chủ động trong tình yêu đôi lứa, biết yêu và cũng có tâm hồn tinh tế để nhận ra đúng người phụ nữ chung tình. Còn về phía nhà nho, hẳn không phải chỉ muốn đề cao cặp mắt xanh của cô tiểu thư “con nhà” đối với người hàn sĩ mà còn muốn nhấn nhiều hơn đến chữ “nghĩa” của một cặp phu thê mẫu mực, có thể làm tấm gương soi cho nhiều đời sau. Đối chiếu với văn bia, Nguyễn Văn Giai có đến mười bốn bà vợ, hai bà Chính phu nhân và hai bà Á phu nhân, nhưng nếu đúng là người cùng xã như Tang thương ngẫu lục nói thì có lẽ đây là bà Nguyễn Thị Viện, không nằm trong hàng Chính và Á phu nhân nhưng lại được liệt kê đầu tiên và được phong là “Quận phu nhân” - bà phu nhân của ông Quận công. Cách xếp đặt khác thường của văn bia xác nhận vị trí quan trọng có thật của bà vợ ba này mà Tang thương ngẫu lục sẽ còn nhắc đến. Dựa vào một bộ “tập truyện”, gia phả kể rằng ông có sức ăn rất khỏe, và cũng có tài nhịn ăn không giống ai. Trong thời kỳ phải bôn ba ra kinh đô Thăng Long tìm thầy học thêm, ông ăn đẫy một bụng từ nhà rồi đánh đường trẩy kinh, dọc đường rất ít khi kiếm được bữa ăn thêm mà vẫn không mất sức. Một hôm từ kinh đô trở về, qua làng Đồng Cổ ở Thanh Hóa thì trời vừa tối. Không tìm ra quán trọ, ông ghé vào ngôi đền bên đường ngủ tạm, chợt thấy trên bệ thờ có cỗ xôi, chai rượu và một vai lợn luộc bày sẵn, đang lúc đói liền hạ xuống đánh chén. No say túy lúy rồi, ông lần vào hậu cung ngủ luôn một giấc. Khi mọi người đến chia phần thấy cỗ cúng đã biến mất, vội đi tìm mà không biết thủ phạm ở đâu. Sáng ra, viên thủ từ mới tìm thấy ông, bèn trói lại giải về cho người làng tra vấn. Bỗng có một vị trưởng giả trong làng đến bảo: “Thôi, hãy cởi trói cho người ta đi”. Hỏi thì vị này cho biết, đêm qua nằm mộng thấy ông thần của làng hiện về bảo rằng anh thanh niên đây vốn có túc duyên với mình; bữa cỗ tế thần đem đãi anh ta thực là ý của thần, xin làng đừng nặng lời trách mắng. Nói rồi vị trưởng giả hỏi ông: “Thư sinh mà ăn khỏe như cậu phỏng ăn bao nhiêu mới đủ ?” Ông đáp: “Ăn bao nhiêu cũng không xuể”. Người làng nghe vậy vội bảo nhau mỗi người về nấu một niêu cơm ước chừng một bát gạo, toàn thứ gạo chiêm chưa giã, đem đến đình làng góp chung lại mời ông ăn. Ông không chút khách sáo, cầm đũa xới cơm ăn hết nhẵn rồi mới từ tạ ra đi [8]. Lại một ngày kia, ông đi qua xã Tam Tảo, huyện Yên Phong thuộc trấn Kinh Bắc, gặp lúc dân làng ở đây đang đào một cái ao [9], đã ba ngày mà chưa xong. Ông cười bảo họ: “Làng ta có bao nhiêu người mà sao làm việc uể oải vậy?” Người làng quay lại bảo nhau: một gã thư sinh sức vóc phỏng được đến đâu mà dám đại ngôn khinh người quá thế. Bèn bảo với ông: “Anh mà đào được thì bấy nhiêu tiền phí tổn ăn uống dân làng chúng tôi xin tặng hết cho anh”. Nguyễn Văn Giai ngang nhiên cầm lấy thuổng bước xuống đào ngay. Chưa đầy một ngày cái ao lớn đã hoàn thành. Dân làng đem tất cả phần cơm dồn lại, ông chỉ ăn trong một nhoáng là sạch. Về sau khi ông đã giữ chức Thượng thư Bộ Lại, hai làng ở Tam Tảo kiện nhau cái ao, việc đến tai ông; ông cho gọi chức dịch cả hai làng lên, nói cho biết chính mình đã đào cái ao ấy, và khuyên họ nên xếp bỏ việc kiện tụng. Các bậc kỳ lão nhớ ra chuyện anh thư sinh đã đào ao ngày trước, hết sức xấu hổ; vụ kiện ao nhờ đó khép lại chóng vánh. Để chứng tỏ tấm lòng phục thiện, dân hai làng tình nguyện xin ông đứng tên làm người sở hữu danh dự cái ao của cả đôi bên [10]. Môtip ăn khỏe vốn là môtip đề cao sức lực của người dũng sĩ trong sử thi và anh hùng ca thời cổ, về sau còn để lại tàn dư ở khá nhiều truyền thuyết và cổ tích của người Việt. Tất nhiên khi chuyển vào cổ tích, theo chúng tôi môtip này đã có một bước thay đổi về mặt ý nghĩa. Nó có giữ lại một phần nội hàm cũ nhằm nói lên sức khỏe hơn người của nhân vật chính, nhưng đấy chưa phải là phần quan trọng. Mà quan trọng hơn là nó muốn chỉ ra gốc gác và bản chất loại hình của một kiểu nhân vật riêng trong truyện cổ tích - nhân vật xuất thân là anh “lực điền”. Gia phả và truyện ký đã khai thác cùng lúc cả hai ý nghĩa này khi liệt nhập truyền thuyết ăn khỏe vào cho Nguyễn Văn Giai. Ông được đề cao về mặt sức khỏe để nói lên một phương diện quan trọng đã làm cho ông thành danh: khả năng dụng võ. Đồng thời, sức khỏe đó cũng là một cách làm mờ đi chất nho sĩ và làm đậm thêm chất nông dân ở ông. Tại đền thờ ông hiện còn bày những con chó đá tương truyền do ông tự mình gánh về từ Thanh Hóa bằng dây buộc cày mà ở vùng Nghệ Tĩnh gọi là “chạc cày” (ở Nghệ Tĩnh không có núi đá vôi có thể tạc được tượng). Giữa đường chạc cày bị đứt. Ông lấy rơm bện lại gánh thẳng một mạch về đến làng, vừa gánh vừa ngâm:
Câu chuyện cấp cho chúng ta cái hình ảnh một vị quan đầu triều mà vẫn rõ ra là một anh chàng “vai u thịt bắp”, rất dân dã qua cách hình dung của dân gian. Kể cả tình tiết xử lý vụ kiện ao của vị Tể tướng cũng có phần đặc biệt. Một vị Tể tướng mà quan tâm đến câu chuyện tranh chấp một cái ao của làng. Lạ hơn nữa, một người làm việc quan mà không xui nguyên giục bị để kiếm lợi, không đòi tiền lễ, lại lấy phương châm “một sự nhịn là chín sự lành” ra giải quyết. Phải chăng ở con người thực của Nguyễn Văn Giai, trước sau bản chất thuở hàn vi vẫn giữ được nguyên vẹn? Mặt khác, chuyện vun vén làm sao để gắn bó, hòa giải trong làng ngoài xã xưa kia vẫn là mối bận tâm, gây không ít băn khoăn nhức nhối cho đại đa số quần chúng, nên dân gian đã mượn biểu tượng một vị “thánh nhân” tiếng tăm một thời để gửi gắm phương án giải quyết cơ bản và dài lâu đối với vấn đề đáng gọi là nan giải trong đời sống hàng ngày của họ? Thuở ấy đất nước đang thuộc quyền cai trị của nhà Mạc. Vua Lê do Trịnh Kiểm (1545-1569) phò tá còn ẩn náu ở miền núi rừng Thanh Hóa. Nguyễn Văn Giai được gia đình gửi ra kinh đô Thăng Long tìm thầy giỏi để học tập, nhưng trong lòng chỉ toan tính chuyện phù Lê. Tuổi trẻ, ngông nghênh, lại tự tin ở tài sức của mình, anh còn để lại bài thơ Nói khoác đọc cho bạn bè tâm phúc nghe, trong đó truyền thống “nói trạng” của xứ Nghệ được phát huy đến cực điểm :
Bài thơ này cũng như bài thơ kế tiếp ở dưới được ghi lại rất sớm trong gia phả. Vận dụng thủ pháp thậm xưng, khuếch đại, người viết vừa tỏ ý hài hước vừa bộc lộ chí hướng của mình, giữa thời buổi rối ren rất khó chọn một hướng đi. Cho nên đây là thơ “nói chí” nhưng lại không phải loại thơ “nói chí” thông thường mang ngữ điệu trang nghiêm, mực thước, trái lại nó đã phơi bày khá rõ tính cách cá nhân, một dạng cái “tôi” ngông nghênh mà sau này Nguyễn Công Trứ sẽ phát triển lên một bước cao hơn. Cách dùng nhiều từ vựng thông tục (nói khoác; tày nửa đấm; nhảy tót) cho thấy thơ nôm đến Nguyễn Văn Giai đã rời bỏ dần mạch ngôn ngữ tao nhã của thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thế kỷ XVI (ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm ra, không còn người nào khác để có thể so sánh). Về mặt này ông là người mở đường để rồi đây những người sau kế tiếp và với Hồ Xuân Hương thì đã là một bước nhảy triệt để trong việc biến “cái thông tục” thành “cái thẩm mỹ”. Vốn là anh học trò áo vải, cái rét ghê gớm của xứ Bắc giữa mùa đông tháng giá đối với Nguyễn Văn Giai là cả một cực hình. Ông thường nằm co quắp trong quán trọ vào những ngày buốt giá, đến nỗi quân lính nhà Mạc đi tuần cũng không buồn dậy. Một lần gặp một toán quan quân võng lọng đến các quán xét hỏi, thấy ông vẫn nằm im, lính tuần liền quát mắng. Ông chống chế: “Kẻ hàn sĩ xa nhà phải nằm cho đỡ lạnh, đâu dám khinh mạn bề trên”. Viên quan Chấp kim ngô nghe ông xưng mình là học trò bèn bắt ông phải làm bài thơ Nằm co, lấy chữ “cuồng” làm vần. Ông không nghĩ ngợi lâu, ứng khẩu đọc liền:
Đây cũng là một bài thơ “nói chí” dưới hình thức khoác lác giống như bài thơ trên, nhưng điểm đặc sắc về mặt ngôn từ là câu nào cũng mang nghĩa đen hoặc nghĩa bóng chỉ người nằm co đúng với đề tài định trước, lại sử dụng vần “cuồng” khá chuẩn, có cả những từ sỗ sàng “vỗ mặt” kẻ ra đề mà vẫn rất lịch sự, đồng thời còn kín đáo bày tỏ được khí phách cứng cỏi và cái ngông của mình. Nếu hiểu theo nghĩa bóng thì hai chữ “mình truồng” đã dẫn đến những liên tưởng nghịch ngợm trong cách dùng chữ ở các câu sau như cuốn/giương; khuất/duỗi..., kể cả những lời tuyên bố tưởng chừng nghiêm túc mà xem ra cũng ẩn giấu một nét cười cợt: “Lòng trung hiếu bo còn giữ” (trong một cơ thể trần truồng thì cái bộ phận được giữ kín nhất ấy là... “lòng trung hiếu” !). Theo gia phả, vị quan nhà Mạc nghe xong bài thơ hết sức ngạc nhiên, ban tiền và áo quần cho ông rất hậu, khuyên ông nên vào học ở nhà Thái học. Sau đó ít lâu, có lần ông dạo chơi Hồ Tây, trên đường gặp xa giá vua Mạc Mậu Hợp (1562-1592) cũng đi du lãm. Ông không né tránh mà cứ thẳng đường đi tới. Đám quân dẹp đường thấy vậy quát tháo, ông cự lại: “Bậc vương giả “du quan” còn người nho giả thì “du học”, chúng bay sao được cấm càn ?”. Viên quan theo hầu thấy lạ bèn cứ thực tâu lên. Mạc Mậu Hợp xuống chỉ đưa ông về nơi đài tạ giữa hồ để nhà vua tự mình xét hỏi. Nhờ tài ứng đối trôi chảy, Nguyễn Văn Giai được vua tha bổng. Nhân khi đang hứng vua Mạc ra cho ông vế đối: Ao Thanh Trì nước xanh leo lẻo, cá lội ngắc ngư Chỗ khó của vế đối này là cách chơi chữ lắt léo, dùng từ đồng âm Hán Việt để lặp lại nghĩa tiếng Việt: Thanh Trì ứng với ao xanh; cá ứng với ngư. Nguyễn Văn Giai cũng tìm ra một vế đối có cách chơi chữ tương tự để đối lại, trong đó Ngân Hà ứng với sông bạc; vịt ứng với áp đều là từ đồng nghĩa: Sông Ngân Hà sao bạc lăn tăn, vịt nằm ấm áp Mạc Mậu Hợp lại ra cho ông một vế đối khác mà sự lắt léo lần này là ba chữ đầu nói về cái chày nhưng đều chỉ tên ba giống cá, ứng với chữ “ngư” ở giữa và chữ “cá” ở cuối cùng : Chày cháy trôi sông, bác ngư ông ngỡ cá Ông lại cũng tìm ngay ra một vế đối tương hợp, có ba chữ đầu nói về thời gian của người đi biển, nhưng chính là tên ba vì sao, ứng với chữ “tinh” ở giữa và chữ “sao” ở cuối câu : Hôm mai vượt biển, tài tinh tướng xem sao [12] Vua Mạc cực lực tán thưởng, muốn cất nhắc ông ngay, nhưng Nguyễn Văn Giai khéo léo khước từ. Thực tế chưa chắc Nguyễn Văn Giai đã có cuộc gặp gỡ với Mạc Mậu Hợp thật, bởi một nho sinh nghèo vô danh tiểu tốt được bệ kiến vua đâu phải dễ. Nhưng có phần chắc nhà nho đưa truyền thuyết này vào cốt làm nổi bật năng khiếu văn chương đột xuất cũng như thái độ bất hợp tác với Mạc từ sớm của ông, mặt nữa cũng để chứng tỏ vua Mạc phải nể sợ trước một thư sinh nghèo hèn, chưa xứng tư cách “bề trên” của một đấng thiên tử. Nhìn dưới con mắt tiếp nhận của hôm nay, chúng ta hẳn có cách nghĩ trái lại -- đây là truyền thuyết bắt nguồn từ một sự thật : triều đại Mạc vốn tương đối khoan dung và do không xuất thân từ một dòng họ “lá ngọc cành vàng” nên trong cung cách giao tiếp đối đãi cũng ít lễ nghĩa cố chấp mà khá bình dân (giống như triều đại Trần thuở ban đầu). Năm 1571, nhân khoa thi của nhà Mạc mở ở Sơn Nam, Nguyễn Văn Giai dự thi và đỗ Giải nguyên. Nhưng vì trong lòng cứ tâm niệm chuyện phù Lê, ông không dự tiếp thi Hội mà tìm đường trở về quê quán. Mãi 7 năm sau, trong niên hiệu Quang Hưng thứ hai đời vua Lê Thế Tông (1579), nhà Lê mở khoa thi ở Thanh Hóa, ông mới lại ra thi, và lại đỗ Giải nguyên. Hai năm sau nữa, nhà Lê mở khoa thi Hội đầu tiên ở sách Vạn Lại, ông đi thi tiếp, đỗ Hội nguyên, rồi vào thi Đình đỗ luôn Đình nguyên Hoàng giáp. Ngay trong năm ấy ông được bổ Hàn lâm hiệu lý nhưng rồi có việc bị mất chức về nhà dạy học trong sáu năm [13]. Thời gian này cuộc chiến giữa Mạc và Lê-Trịnh đang diễn ra ác liệt. Trịnh Tùng (1570-1623) mấy phen cầm quân đi đánh Mạc đều thua to. Một hôm Trịnh Tùng nằm mộng thấy mình vẽ hình mặt trời mãi mà vẫn không xong, bỗng thấy một thần nhân áo mũ kỳ vĩ đến trước mặt bảo rằng: nếu muốn vẽ được mặt trời tất phải triệu Nguyễn công, rồi đọc cho nghe một bài thơ tứ tuyệt:
Chốc sau chợt thấy Nguyễn Văn Giai ở đâu xuất hiện, cầm lấy bút của Tùng vẽ một nét được ngay hình mặt trời tròn vành vạnh. Thế là tỉnh dậy, Trịnh Tùng quả quyết triệu ông đến quân doanh phong chức Lễ khoa phụng sai tiết chế. Tiếp tục lọc bỏ chỗ khuếch đại của truyền thuyết nhà nho vẫn cùng một cảm hứng đề cao tài năng siêu việt của Nguyễn Văn Giai đến mức được thần linh mách bảo, ta có thể xác định đây là thời điểm vị Hoàng giáp nổi tiếng về văn đã may mắn gặp được người tiến cử đúng chỗ sở trường về võ. Từ đây, quân Lê-Trịnh chuyển bại thành thắng. Nguyễn Văn Giai được cùng với Trịnh Tùng nắm giữ năm đạo quân tiến thẳng ra Bắc, chiếm lại Thăng Long, bình định thành trì rồi lại rút về. Đến năm 1592, sau khi làm lễ tế cáo thiên địa tổ tông, đại quân Lê-Trịnh lại tiến ra Bắc lần thứ hai. Trong trận Đường Nang, ông ngồi cùng voi với Trịnh Tùng. Quân Mạc chống lại rất dữ, quản tượng bị giết, mọi người nao núng, ông liền nhảy lên đầu voi thay thế, thúc quân tiến đánh. Quân Mạc thua to, lục quân bị đại bại ở Ý Yên, Sơn Nam; thủy quân bị đánh tan tác ở Bình Lục, Thanh Oai, Hát Giang; các bề tôi Mạc có tên tuổi như Đỗ Uông, Nhữ Tông, Đồng Hàng, Ngô Tháo đều ra hàng. Quân nhà Lê thu phục lại Thăng Long, xa giá vua Lê trở về kinh thành. Xét công lao phò tá, Nguyễn Văn Giai được phong Đề hình giám sát ngự sử. Tiếp đấy, ông còn được cử đi dẹp dư đảng của nhà Mạc, và nhất là chủ trì việc giao hảo với Trung Quốc, để Trung Quốc thừa nhận nhà Lê trung hưng. Cuộc thương nghị kéo dài trên một năm, từ tháng Ba năm 1596 đến tháng Tư năm 1597 mới hoàn tất [15]. Ngay trong năm ấy Nguyễn Văn Giai được phong Hữu thị lang Bộ Hộ, tước Bá. Ông còn được nhà vua giao chuyên việc từ hàn, soạn văn thư đặt quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng. Năm 1599, trước sức ép của triều đình Trung Quốc, nhà Lê phải nhường đất Cao Bằng cho Mạc. Mạc Kính Cung (1593-1625) lên ngôi vua, cấu kết được với một số võ tướng Lê-Trịnh lại kéo đại quân về bao vây Thăng Long. Vua Lê Kính Tông (1599-1619) phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Nguyễn Văn Giai lại cùng Trịnh Tùng xuất quân đốc chiến, đánh bại quân Mạc, giành lại Thăng Long. Sau trận này ông được thăng Hữu thị lang Bộ Lại. Năm 1600, Mạc Kính Cung cất quân đánh xuống Thăng Long một lần nữa. Đang giữa lúc về nghỉ ở quê cư tang cha, Nguyễn Văn Giai được lệnh triệu gấp ra kinh đô tiễu trừ quân Mạc. Ông vâng mệnh đến ngay nơi màn trướng, đánh lui được giặc và được phong Đô ngự sử ở Ngự sử đài. Năm 1604, ông được phong Thượng thư Bộ Hộ và hai năm sau được gia phong Tham tụng, Thượng thư Bộ Lại, tước Hầu. Đến năm 1612, được đặc phong Quận công. Năm 1617 thăng lên Thiếu phó và chỉ một năm sau được giao quyền cai quản cả lục bộ. Ông cùng Trịnh Tráng (1623-1657) thân chinh đi đánh Mạc Kính Khoan (1623-1638) thắng trận, trở về được thăng Thiếu úy, liệt vào hàng Kiệt tiết tuyên lực dực vận tán trị công thần. Trong những năm từ 1619 đến 1623 trong triều có nhiều biến cố. Vua Lê bị chúa Trịnh chèn ép và bản thân nội bộ cha con, anh em họ Trịnh cũng lục đục. Trịnh Tùng thâu tóm binh quyền, chia cho hai con mình nắm giữ là Trịnh Tráng (ngôi trưởng) và Trịnh Xuân (ngôi phó). Nhưng Trịnh Xuân lại liên kết với dư đảng nhà Mạc, nổi lên đốt phá kinh thành, vua Lê phải chạy về Hoàng Mai, Thanh Hóa lần nữa. Nguyễn Văn Giai đã cố gắng giải quyết êm thấm những sự cố đầy bi hài này, dụ được Trịnh Xuân đến phục tội trước Trịnh Tùng để Trịnh Tùng tự giải quyết “mầm họa” do mình gây nên - Tùng cho chặt chân con đến chết ngay trước mặt, sau đấy Tùng cũng lâm bệnh mà chết - rồi đệ đơn xin về trí sĩ. Nhưng do uy tín của ông, chưa được bao lâu ông lại được triệu ra giữ nguyên chức cũ. Ngày 13 tháng Giêng năm Mậu thìn, tức 27 tháng Hai năm 1628, ông mất tại chức, được truy phong chức Tư đồ. Các triều đại sau đều ra sắc chỉ nâng chức tước của ông lên những trật cao hơn. Gia phả dựa vào một bộ “di lục” chép lời bình luận tổng quát về Nguyễn Văn Giai : một con người cương trực, khí tiết, luôn luôn giữ đúng “tam quy” chốn quan trường là thanh thận cần -- thanh liêm, thận trọng, cần mẫn; giữa Triều đình nói năng không tránh né mà vẫn được cả vua lẫn chúa vì nể. Cũng sách Tang thương ngẫu lục còn cho biết, thời kỳ ông nắm giữ công việc Tể tướng, uy nghiêm khét tiếng, “các bậc thân quý của vua chúa đều phải nín hơi không ai dám làm càn. Một vị Quận mã, con rể của chúa đi đánh trận thua chạy, ông bắt bỏ ngục rồi xử vào tội chết. Chúa muốn tha nhưng rất khó nói, cầu đến dụ chỉ của nhà vua, cũng vẫn không lay được ý định của ông. Bấy giờ ông có nhiều vợ, có đến năm, sáu bà, địa vị hầu như là bà Chính phu nhân, duy có bà Ba là người được ông yêu dấu. Bà Quận chúa vợ Quận mã bèn đem châu ngọc, nhờ bà Phó mẫu -- người dạy bảo mình hồi nhỏ -- dẫn đến thăm bà Ba và kể việc Quận mã. Bà Ba từ chối mà rằng: “Tướng công tôi là người thanh liêm thẳng thắn. Việc lớn của Triều đình tôi đâu dám dự”. Quận chúa cố nài thật thảm thiết, bà Ba bèn bảo : “Nếu vậy sáng mai, Quận chúa hãy cho đem một con lợn nhỏ luộc chín, một mâm xôi thổi nếp cái, và kèm cả tương dấm dao thớt nữa, lựa lúc tướng công tôi đi vắng đưa vào”. Quận chúa mừng rỡ cảm ơn. Sáng hôm sau, sắp sửa vào triều, ông bảo dọn cơm sáng để ăn. Bà Ba nói: “Trong triều bây giờ các quan đã đến đầy rồi. Tướng công hãy vào rồi về sẽ xơi cơm thì hơn”. Ông lên kiệu đi. Lúc ở trong triều về thì bụng đã đói ngấu, thấy cái lồng bàn đang đậy, mở ra, sẵn dao và thớt, thái ngay thịt lợn ăn lẫn với xôi, chỉ một lúc hết nhẵn. Ăn xong ông chợt hỏi: “À, những thứ ấy ở đâu mà có thế nhỉ ?” Bà Ba kể duyên do. Ông rất tức bực, lúc lâu mới nói: “Ta lầm lỗi rồi! Ta lầm lỗi rồi! Nhưng vì một bữa ăn no mà làm sống một mạng người, chẳng cũng bởi trời hay sao?” Liền lên xe vào phủ xin tha cho người có tội. Chúa mừng rỡ nghe theo ngay”. Nếu truyền thuyết ăn khỏe nói ở phần trên là của dân gian, khai thác cái mặt hồn nhiên, “tính trời” trong tư chất của Nguyễn Văn Giai, cùng những hệ quả tích cực của tư chất ấy khi ông hành xử trên cương vị một ông quan lớn, thì truyền thuyết ăn khỏe đến đây lại được nhà nho tiếp tục ở khía cạnh phê phán: Nguyễn Văn Giai đã chịu hậu quả xấu của “thói phàm ăn” bởi ông đã không theo đúng phương châm ăn uống cẩn trọng của đức Thánh Khổng “thịt không cắt vuông không ăn”. Đủ thấy, dù là một con người đã đến tầm cỡ bậc thánh như Nguyễn Văn Giai cũng vẫn không tránh hết mọi lầm lỗi. Tuy vậy, cũng bởi đã đạt đến bậc thánh nên đây chỉ là chút tỳ vết do vô tình mà mắc phải, như một cảnh báo của ông trời (“Thiên yếm chi, thiên yếm chi” -- Luận ngữ, “Ung dã”). Vì thế, dẫu là vô tình trong việc ăn một con lợn luộc nhỏ và một mâm xôi, đối với người cầm cân nẩy mực thuở xưa đã mang ý nghĩa một hành vi tham nhũng đáng phải tự răn, cũng lại phải đánh đổi bằng việc xin tha cho một vụ trọng án. Người chép truyền thuyết muốn nhắn nhủ: sự giữ mình của các bậc quyền cao chức trọng thời xưa thật đáng trọng mà cách giữ chữ tín cũng thật đáng trọng. Nhưng nhìn chung, trong chỗ khả thủ của tính cách Nguyễn Văn Giai cũng có để lộ một đôi điều bất cập. Cái bất cập lớn nhất là ông đã tuân thủ chữ “lễ” của Nho giáo một cách quá cứng nhắc. Một lòng phò tá vương triều chính thống, ông đi đến đánh giá không khách quan tất cả mọi triều đại đối lập với Lê-Trịnh, bỏ ngoài tai những việc làm dù tốt hay xấu của họ, kể cả cách nhà Mạc đối xử biệt nhãn với nhân tài, thậm chí với những người chưa có chút tiếng tăm như Nguyễn Văn Giai thời trẻ. Căn bệnh “chính thống”, coi tất cả những gì thuộc phía đối lập với ta đều là xấu, phải xóa bỏ bằng hết, hình như cũng là cái cố tật của những con người sống trong mọi cơ chế toàn trị xưa nay, không riêng gì Nguyễn Văn Giai -- vị công thần trung hưng dưới chế độ phong kiến Lê-Trịnh. Nhưng Nguyễn Văn Giai có thực là con người cố chấp như thế hay không? Cũng theo gia phả, khi đánh dẹp xong nhà Mạc, ông không nỡ để cho dòng dõi Mạc bị tuyệt diệt nên đã chọn một người con trai họ Mạc đem về làm con nuôi, người con ấy hiện nay ở Ích Hậu vẫn còn con cháu đông đúc. Cách ứng xử có hậu này có vẻ như không giống với những gì sử sách và truyện ký ghi chép mà trên chúng tôi đã dẫn. Chúng tôi nghĩ, ở đây truyền thuyết dân gian đã bị truyền thuyết nhà nho chế áp, và sự thực là nhà nho chứ không phải dân gian cố tình đẩy đến cực đoan tư tưởng chính thống của ông. Tất nhiên, trước sau ông vẫn là một mẫu hình của Nho gia nên trong cách giải quyết mọi việc công và tư đều không thoát khỏi có những lúc những nơi thiếu phần mềm dẻo. Chỉ riêng chuyện đối đãi với con cái, cũng nhược điểm này đã làm cho Nguyễn Văn Giai mất uyển chuyển, nặng về lý trí và chức phận mà thiếu phần tình cảm ruột thịt cha con. Vì một bà vợ chính thất có lỗi, ông đã dứt khoát gạt bỏ chức trưởng nam của người con cả do bà sinh ra, đưa một người con thứ lên thay thế. Nhưng cũng từ đó, tình thân giữa anh em trong gia đình rạn vỡ, quan hệ nhường nhịn giữa họ mất đi. Người con trưởng do ông tự ý xếp đặt không được các em tâm phục, và bị một người em thứ khác nhóm họp gia nhân chống lại, đến nỗi đang bận công việc triều chính, được tin, ông phải tức tốc về quê phân xử, cuối cùng đã phải tự tay giết đứa con “khởi loạn” để giữ vững “gia phong”. Đó chính là tấn bi kịch lớn về cuối đời ông, cộng thêm với tấn bi kịch nhức nhối của kẻ nhìn thấy mọi dường mối cương thường của cái triều đình mà mình dựng lên đang sụp đổ dần trước mắt. Việc ông cho “ca hát ba ngày” sau khi giết con không nói lên cái hào hứng tự nhiên của người thanh thỏa với mình mà chỉ là một hành động “tự trấn áp” về tâm lý, một kiểu “hội lễ” bất thường để mọi con dân dưới quyền vợi bớt phần lo lắng. Tang thương ngẫu lục cũng ghi được câu chuyện về một thoáng ngậm ngùi của con người uy phong nghiêng trời ấy, nó như là sự chiêm nghiệm của vị Tể tướng về những gì ông đã làm trong quá khứ mà thâm tâm ông biết sẽ dẫn đến hậu vận không lấy gì làm sáng sủa cho mình: “Một hôm ông vào triều đi qua chợ Cửa Đông thấy con cá mè lớn bề ngang đẫy thước, ông dừng lại hỏi và khen ngợi. Rồi khi trở về nhà, thấy rất nhiều người đem biếu cá, toàn là những khúc cá mè. Ông đùa bảo thử chắp lại xem, thấy chỉ thiếu đuôi, còn thì đều đủ thân hình con cá. Ông sai ra hàng cá tìm thì quan Thái tể đã mua về tiến vua rồi. Ông than rằng: “Có lẽ con cháu ta sau này sẽ không được thịnh vượng chăng ?” Sau khi ông mất quả đúng như lời ấy”. Nguyễn Văn Giai, con người rất hiểu nhân tình thế thái, và cũng là người cư xử với người đầy lòng nhân hậu, ấy vậy mà trong việc “tề gia”, chính ông lại bị thói quen của người chuyên việc chấp chính, đặt “hệ tư tưởng” của đấng cầm quyền lên trên mọi sự, dẫn đến những quyết đoán không thấu tình đạt lý. Ông đã không vượt được cái bóng của mình. Ở phần kết cục này thì cả truyền thuyết nhà nho và truyền thuyết dân gian đều hội tụ lại để có chung hai hàm nghĩa: vừa nâng ông lên một tầm thước quá kích cỡ con người bình thường, đúng như chức năng của truyền thuyết là “một truyện kể với tính cách dị thường, trong đó những sự kiện lịch sử được biến đổi bởi trí tưởng tượng dân gian hoặc bởi sự sáng tạo thi ca” (Encarta, mục “Légende”, 2003) nhằm gây niềm tin thần thánh, nhưng cũng vừa làm cho hình ảnh ông có phần xa lạ với cái phần “người” của thế nhân. Rất có thể đấy là tấm gương khúc xạ của một thời kỳ lịch sử mà mọi hành vi thái quá đều do lịch sử quy định. Tháng 1-2005 [1] Về sinh quán của Nguyễn Văn Giai cũng đã có những sách báo nhầm lẫn, chẳng hạn cuốn Thanh Lâm phong thổ chí được Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật lấy làm chỗ dựa để viết bài “Danh nhân Hải Dương” trên Tạp chí Nam phong số 162 (1931); tr. 474-476, thì cho rằng Nguyễn Văn Giai sinh ở làng Đại Lã, phủ Nam Sách (Hải Dương), còn tổ quán thuộc làng Phù Lưu, huyện Thiên Lộc (Bắc Ninh). Đây là một ghi chép thiếu chính xác, vì ở Bắc Ninh không hề có huyện Thiên Lộc, trái lại, trong địa chí trấn Nghệ An, huyện Thiên Lộc có từ rất lâu đời. Và đến nay, tấm bia dựng từ thế kỷ XVII (1697) ở đền thờ Nguyễn Văn Giai vẫn còn nguyên vẹn. [2] Các tài liệu mà chúng tôi sử dụng để viết bài này ngoài bài văn bia Tu tạo Tổ công Thái tể bi khắc và dựng vào tháng Mười niên hiệu Chính Hòa thứ 18 (1697) đặt tại đền thờ, và các bộ tộc phả Tân tập Nghệ An Thiên Lộc huyện Phù Lưu trường Nguyễn Thị đại tông tổng ký (1821), Tân tập gia phổ Nghệ An Thiên Lộc huyện Phù Lưu trường Nguyễn Thị đại tông tổng ký (1891), Tân tập gia ký (1897) như đã nói trên, còn có: Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lê, Bản kỷ tục biên, Quyển XVI-XVIII; Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển XXIX-XXXI; Lê triều trung hưng công nghiệp thực lục của Hồ Sĩ Dương (1622-1681); Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840); Lịch đại đăng khoa lục của Vũ Duy Đoán (1621- ?); Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục của Nguyễn Hoản (1713-1792), Vũ Miên (1718-1782), Phan Trọng Phiên (1735-1809), Uông Sĩ Lãng (? - ?); Liệt huyện đăng khoa lục bị khảo của Phan Huy Ôn (1755-1786); Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch (1757-1828); Thiên Lộc huyện phong thổ chí của Lưu Công Đạo (cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, sách viết năm 1811); Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn; Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ (1768-1839) và Nguyễn Án (1770-1815); Địa chí huyện Can Lộc của Võ Hồng Huy, Thái Kim Đỉnh và Chương Thâu, Huyện ủy -- Ủy ban nhân dân Can Lộc và Sở Văn hóa thông tin Hà Tĩnh xuất bản, 1999. [3] Theo Thiên Lộc huyện phong thổ chí, ngay từ thuở còn chơi trò thả diều, gặp lúc Phan Đình Tá về nghỉ hưu có cờ biển đề “Lưỡng triều Tể tướng”, Nguyễn Văn Giai liền viết vào thân diều mấy chữ “Thiên cổ tội nhân” để đối chọi với mấy chữ trên lá cờ của ông Tá, có ý mỉa mai ông ăn ở hai lòng. Đây cũng là một truyền thuyết của nhà nho nhằm đề cao chữ “trung” của Nguyễn Văn Giai. (Phan Đình Tá (1468- ?) người xã Phù Lưu thượng, nay là xã Hồng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh, gần quê Nguyễn Văn Giai, đỗ Hoàng giáp năm 1499, làm quan với nhà Lê đến chức Thượng thư Bộ Lại, về sau lại là người viết chiếu lên ngôi cho Mạc Đăng Dung (1527-1529), làm Thượng thư với nhà Mạc, được phong tước Hầu). [4] Theo gia phả họ Nguyễn Văn. [5] Bài thơ này trong Văn đàn bảo giám Quyển I của Trần Trung Viên (in lần thứ ba, Nxb. Nam Ký, Hà Nội, 1932), có chép một dị bản nói là thơ Nguyễn Khuyến (1835-1909), dưới đầu đề Già đời, trong đó câu thứ hai là “Thấm thoắt xuân thu bảy chục tròn”, và hai câu lục ngôn thứ ba và thứ bốn biến thành thất ngôn : “Sự nghiệp chưa thành danh cũng hổ / Quan tài sẵn có chết thì chôn”. Nhưng hiện tượng “ba vua bốn chúa” không đúng với trường hợp Nguyễn Khuyến. Nếu Nguyễn Khuyến làm bài thơ năm ông bảy mươi tuổi (1905) thì tính từ khi ông ra làm quan năm 1871 cho đến lúc ấy đã là bảy đời vua mà chúa thì không có. Còn Nguyễn Văn Giai sinh năm 1555, ra làm quan từ 1580, nếu cũng tính đến năm ông bảy mươi tuổi (1523) thì quả đã trải qua ba đời vua: Lê Thế Tông (1573-1599), Lê Kính Tông (1600-1619), Lê Thần Tông (1619-1628) và có bốn đời chúa liên quan đến sự nghiệp của ông là hai chúa Trịnh: Trịnh Tùng (1570-1623), Trịnh Tráng (1623-1657), và hai chúa Nguyễn: Nguyễn Hoàng (1558-1613), Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1634). Đặc biệt, chất giọng cao ngạo của bài thơ như việc gọi vua chúa một cách xách mé “ba vua bốn chúa” thì phải là một bậc Tể tướng có nhiều huân nghiệp mới có được. Vì thế, ở đây chúng tôi chép theo gia phả và sách Tài trẻ nước Nam của Bình Ân, do Mộng Thương thư trai xuất bản, Vinh, 1933. Nói chung, về 4 bài thơ nôm của Nguyễn Văn Giai trích dẫn ở trong bài, do hoàn cảnh thư tịch của nước ta không còn giữ được bản gốc nên có thể trí nhớ của người sống ở các thời đại sau đã bị sai lạc đi, kể cả về văn bản cũng như tên tác giả. Chúng tôi chưa thể kiểm chứng hết các nguồn sách vở bằng tiếng Việt đầu thế kỷ XX, cũng chưa thể xác quyết được “bản quyền” đích thực của những bài này. Sử dụng gia phả họ Nguyễn Văn, chúng tôi chỉ muốn cung cấp một nguồn tư liệu ở đầu thế kỷ XIX sớm hơn một thế kỷ so với các sách vở tiếng Việt in vào đầu thế kỷ XX, nhằm rọi thêm cho phần thơ tiếng Việt vốn không lấy gì làm phong phú của chúng ta trong các thế kỷ quá khứ. Từ nhiều đời nay, nhân dân vùng Ích Hậu và Can Lộc vẫn nghiễm nhiên coi các bài thơ này là tác phẩm của Nguyễn Văn Giai. [6] Bài này có người cho là của Nguyễn Quý Tân (1814-1858) đỗ Tiến sĩ năm 1842. Chúng tôi cũng đã từng nghĩ như vậy trong bài “Thơ trào phúng của ông Nghè làng Thượng Cốc Nguyễn Quý Tân” viết chung với Vũ Thanh, in trên báo Hải Dương năm 1995. Nhưng nay đọc lại Văn đàn bảo giám, Quyển III, Sđd, thì thấy ghi rõ tác giả là Cụ Thượng Giai chứ không phải Nghè Tân. Vả chăng, phải là một ông quan từng sinh ra ở một vùng quê chuyên nghiệp ăn mày như Ba Xã mới hiểu một cách thấm thía mối quan hệ chuyển đổi giữa quan và ăn mày như trong bài này. [7] Gia phả cho biết tổ tiên Nguyễn Văn Giai có Nguyễn Công Cẩn đỗ Thám hoa lúc 15 tuổi, Nguyễn Văn Long đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Văn Lân là em đỗ Thám hoa đồng khoa với anh, Nguyễn Văn Lâm cũng đỗ Thám hoa, Nguyễn Đăng Quỹ đỗ Bảng nhãn, nhưng tra trong các bộ đăng khoa lục chúng tôi chưa tìm được những tên tuổi này. Có thể đây là những vị đại khoa sống vào đời Trần Hồ là thời kỳ mà đăng khoa lục về sau chép sót rất nhiều. [8] Gia phả chép thêm: về sau khi được tin ông mất, dân xã Đồng Cổ cử người ra kinh đô xin thụy hiệu của ông đem về phối thờ ở đền, và đến nay (thế kỷ XIX), hàng năm, vào tháng Giêng đền vẫn tổ chức lễ tế ông trùng với ngày họ tộc tế ông ở Ba Xã. [9] Trong nguyên văn, người chép gia phả dùng chữ “hồ”. Điều này có vẻ vô lý, vì hồ thường rất lớn, sức một người đào trong một ngày khó xong được. Nhưng ở vùng Nghệ Tĩnh, khái niệm hồ và ao nhiều lúc không phân biệt rõ như các nơi khác. Vì vậy chúng tôi tạm dùng chữ ao để bạn đọc hiểu đúng ý gia phả muốn chép. [10] Gia phả chép thêm: ngày nay bên ao còn có một ngôi đền thờ ông, do con cháu người con trai thứ 11 của ông trông coi. [11] Xẹp vi: tiếng Nghệ Tĩnh, nghĩa là xếp vây lại. Theo Kiều Thu Hoạch trong Tổng tập giai thoại văn học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, 2004, thì bài này được in trong Công dư tiệp ký với danh nghĩa là sáng tác của Vũ Duệ. Chúng tôi đã tra lại Công dư tiệp ký, ở mục Vũ Duệ không hề có bài thơ này. Công dư tiệp ký cũng không chép thơ nôm. [12] Gia phả chú thêm: sở dĩ Nguyễn Văn Giai ứng khẩu như vậy vì chiều hôm ấy vua Mạc cho giăng đèn trên hồ để vui chơi, ánh đèn chiếu xuống nước nhấp nháy như sao. Cũng theo Kiều Thu hoạch, Sđd, thì đoạn ứng đối trên đây là của Trần Danh Án (1754-1794) thời Lê mạt, được ghi lại trong sách Đối đáp thông minh. Chưa rõ sách này in năm nào nhưng suy từ tên sách thì rõ ràng là một cuốn sách tiếng Việt vào mấy chục năm đầu thế kỷ XX, và chắc do một soạn giả được nghe kể từ một nguồn giai thoại khác. Điều đó càng chứng tỏ khả năng ứng dụng linh hoạt văn học dân gian trong đời sống mà truyện Nguyễn Văn Giai hay truyện Trần Danh Án đều là những bằng chứng. [13] Cả Thiên Lộc huyện phong thổ chí và gia phả đều chép như trên, nhưng Lịch triều hiến chương loại chí thì không chép việc ông mất chức, chỉ nói ông đang làm Án sát sứ Thanh Hóa thì Trịnh Tùng nằm mộng được thần đọc cho câu thơ có mấy chữ “Thiên Lộc chỉ huy” nên cho vời ông giúp việc Tham tán ký lục trong quân, được ông bày mưu tính kế rất nhiều. Trong việc đánh thắng Mạc, thu phục lại kinh đô công của ông rất lớn. [14] Chúng tôi tạm dịch. [15] Ở chỗ này gia phả có chép hai câu đối đáp giữa sứ Bắc với Nguyễn Văn Giai: sứ Bắc xướng rằng: “Quỷ mỵ vọng lượng tứ tiểu quỷ”, nghĩa là quỷ, mỵ, vọng, lượng là bốn con quỷ nhỏ, ý muốn chê người Việt như loài quỷ, Nguyễn Văn Giai đối lại: “Cầm sắt tỳ bà bát đại vương” nghĩa là cầm, sắt, tỳ, bà là tám bậc vương lớn, ám chỉ nước ta quang minh lỗi lạc giống bậc đế vương. Xét thấy giai thoại này đã có chép ở một số tiểu sử đây đó, chúng tôi không đưa vào để giải thích mà chỉ đặt ở chú thích.
© Thời Đại Mới
4-3-05 |