thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN

 

Số 9  - Tháng 11/2006

 


 

Báo chí Việt Nam, vận hội mới?
 
 
Hà Dương Tường
 

 

Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, báo chí Việt Nam (trong bài này, đây là nói báo chí xuất bản trong nước hiện nay) là báo chí của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về đại thể đây là điều ai cũng biết, và các nhà lãnh đạo Đảng không quên nhắc lại nguyên tắc này mỗi khi cần thiết.

 

Những người chống cộng dĩ nhiên coi đó là trở ngại tuyệt đối, không cho phép hình thành một nền báo chí đích thực, với những thông tin chính xác và tin cậy được (điều này không hề ngăn cản họ đăng tải lại gần như nguyên văn nhiều tin tức từ báo chí trong nước, chỉ thay đổi cách gọi tên những nhân vật hay tổ chức trong nước, hoặc thêm vào những câu dẫn như “hôm nay, Cộng sản VN thú nhận…”, nhưng đó lại là một chuyện khác!)

 

Tuy nhiên, dù không đi vào cuộc tranh luận ý thức hệ luôn luôn khó đạt đồng thuận, vẫn có nhiều câu hỏi đáng được đặt ra khi tìm hiểu vai trò và quan hệ của báo chí đối với công cuộc phát triển và dân chủ hoá đất nước.

 

Câu hỏi đầu liên quan đến yêu cầu thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng (được ghi trong hai bản Hiến Pháp 1980 và 1992), một đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, trong điều kiện thực tế trước mắt là chưa có sự thay đổi lớn về chính trị: “đồng ý Đảng lãnh đạo nhưng…”. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động của xã hội (chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục v.v.) lại có những chữ “nhưng” riêng, đòi hỏi Đảng phải cụ thể hoá, minh bạch hoá những đường lối, chính sách của mình, phải sửa đổi nó khi cần thiết. Trong lĩnh vực truyền thông, không phải Đảng “làm ngơ”, không nghe thấy những đòi hỏi đó. Bằng chứng là đã có những đạo luật về báo chí, về xuất bản, những chiến lược phát triển Internet v.v. Phần I của bài viết sẽ trình bày qua bối cảnh ra đời của luật báo chí và phân tích những quy định của nó so với nguyên tắc luôn luôn được khẳng định về “tính đảng của báo chí”.

 

Trong điều kiện đó, bộ mặt thực tế của báo chí Việt Nam như thế nào? Chức năng cơ bản nhất của nó: thông tin trung thực, kịp thời và tương đối đầy đủ những sự việc có một ý nghĩa nào đó đối với xã hội, phản ánh trung thực dư luận trong xã hội về những sự việc đó v.v., liệu có được đáp ứng? Câu trả lời ý thức hệ khá dễ: có/không, tuỳ theo chỗ đứng của người trả lời. Vẽ lên một toàn cảnh tương đối đầy đủ, bao quát mọi khía cạnh của vấn đề, với những mảng đen, trắng của nó, là một việc khó hơn nhiều, vượt ngoài tầm tay (khả năng và thì giờ) của người viết và cũng vượt quá khuôn khổ của bài viết này. Do đó, phần II của bài chọn một phương án “trung gian”, dễ hơn, với hi vọng là vẫn phản ánh được phần nào những cố gắng của người trong cuộc (các nhà báo trong nước) để đáp ứng những đòi hỏi của nghề nghiệp: điểm lại một số bài vở, vụ việc trong thời gian gần đây, có liên hệ trực tiếp tới câu hỏi về mối tương quan giữa quyền lực và báo chí, về vai trò của báo chí đối với công cuộc dân chủ hoá đất nước.

 

Sau cùng, là một vài phóng chiếu chủ quan của người viết cho một tương lai hi vọng không xa lắm…

 

 

I.  Một chiếc vòng kim cô…

 

1.    Như mọi người đều biết, những “nguyên tắc” trong chính trị thường khá mềm dẻo! Nguyên nhân của sự mềm dẻo đó cũng dễ hiểu: chẳng mấy khi ngôn từ chính trị chỉ có ý nghĩa đơn tuyến. Từ đó, mỗi tập thể, mỗi cá nhân lãnh đạo của một đảng chính trị – những người có ý kiến quyết định về hướng giải thích ý nghĩa của những nguyên tắc được nêu ra, và hướng áp dụng chúng – nhìn những nguyên tắc đó dưới một góc cạnh khác, theo thời thế một phần, theo quá trình hình thành nhân cách chính trị của mình một phần khác.

 

Ở Việt Nam, rõ ràng thời thế (cụ thể là sự phá sản của các đường lối, chính sách giáo điều của các Đại hội IV và V của Đảng Cộng sản sau chiến thắng năm 1975, nhất là của cuộc đổi tiền tháng 9 năm 1985, cộng với sức ép từ bên ngoài: Liên Xô không còn khả năng viện trợ, và cuộc “perestroika” tạo ra một sức ép chính trị và tâm lý rất lớn) đã buộc Đảng nhắm mắt trước những cuộc “phá rào” từ cơ sở, và chấp nhận những cải tố do một bộ phận các nhà lãnh đạo đề ra, rồi thể chế hoá chúng thành đường lối “đổi mới” của Đảng trong Đại hội VI tháng 12 năm 1986. Vài tháng trước đại hội, những bước lùi của Đảng về đường lối và các chính sách kinh tế cũng mở đường cho nhiều đòi hỏi đòi đổi mới về chính sách thông tin trên các mặt báo – cụ thể hơn, trên một số báo như Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ, Văn Nghệ v.v., những tờ như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân luôn giữ vững lập trường.[1]

 

Sau đại hội, một số vấn đề xã hội tiếp tục được đưa lên mặt báo, như loạt bài về chính sách lý lịch mở đầu trên Tuổi Trẻ đánh thẳng vào chính sách kỳ thị đối với các thành phần nhân dân ở miền Nam trước kia. Tờ báo Văn Nghệ trong hai năm 1987-88 với nhà văn Nguyên Ngọc là tổng biên tập, có những thay đổi rất mạnh về quan điểm đối với văn nghệ. Những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu, trên ba số 24-26, tháng 7.1987, rồi Không có vua, Phẩm tiết, v.v.) và Phạm Thị Hoài (Năm ngày), xuất hiện trong thời gian này. Về các vấn đề xã hội, báo đăng những bài bút ký làm náo động dư luận, như bài Lời khai của bị can của Trần Huy Quang, và nhất là Cái đêm hôm ấy… đêm gì? của Phùng Gia Lộc (trên ba số 3-5, tháng 1.1988).

 

Về phía Đảng, nhà báo Vũ Hồng (Sài Gòn Giải Phóng, ngày 22.1.1988) ghi lại một buổi gặp các nhà báo của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh khi ông tới dự “Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á – Thái Bình Dương”, tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 19-21.1.1988. Sau một bài diễn văn ngắn, ông Linh đã trực tiếp trả lời các nhà báo trong hơn ba tiếng đồng hồ. Những câu trả lời “rất cụ thể, rất căng thẳng và mang tính thuyết phục cao”, qua đó ông Linh thông báo “sẽ có nhiều thay đổi trong cơ cấu chính phủ và đảng” và “sẽ thả hết những người đang học tập cải tạo”. Báo Nhân Dân cùng ngày chỉ đăng bài diễn văn và tóm tắt sơ sài những câu trao đổi với nhà báo trong thứ ngôn ngữ cứng nhắc quen thuộc, và không nhắc tới những nội dung quan trọng như hai vấn đề vừa kể.[2]

 

Song những “lệch lạc” của các báo Tuổi Trẻ, Văn Nghệ, v.v., được uốn nắn rất nhanh, và chỉ không đầy hai năm sau đại hội,[3] mọi chuyện đã trở lại “bình thường”.

 

Nói cho đúng, dù sau đại hội các chính sách “đổi mới” được áp dụng một cách khá nhất quán về kinh tế, việc tiến hành những cuộc “xé rào” trước đó (tức là vi phạm các nguyên tắc kinh tế chưa chính thức được thay đổi) không phải là không nguy hiểm đối với những người vi phạm.[4] Nội dung của nhiều quyết định “xé rào” (như chiến dịch giải thể các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp của tỉnh An Giang hay việc công ty dệt Thành Công tự mua nguyên liệu giá ngoài, tự sản xuất theo kế hoạch riêng rồi tự bán ra ngoài, thoát khỏi cơ chế chỉ tiêu, để tự cân đối vốn, nguyên liệu, lương nhân công những năm đầu 1980…) rõ ràng là đụng tới nhiều xác tín nền tảng của “chủ nghĩa xã hội”. Tuy nhiên, trong lĩnh vực thông tin – văn hoá, bộ máy giữ cửa của Đảng nghiêm ngặt hơn nhiều.[5] Có thể vì nó đụng tới nền tảng của chế độ một cách sâu xa hơn, trong nghĩa là nếu để tự do báo chí, tự do ngôn luận phát triển mà không có “lãnh đạo, định hướng”, thì nguy cơ chế độ bị lung lay lớn hơn nhiều so với việc thay đổi vài chính sách kinh tế – ít nhất đó là cách nhìn của một bộ phận nắm quyền lực trong lãnh đạo Đảng. Mặt khác, lĩnh vực này cũng không trực tiếp gắn với những cơ cực trong đời sống hàng ngày của người dân, nên không bắt buộc phải thay đổi đồng thời với kinh tế. Do đó, dù phải tiến hành những cải tổ kinh tế theo hướng thị trường hoá (vì không có cách nào khác để cứu vãn cả chế độ khỏi sụp đổ, nhất là sau khi “khối xã hội chủ nghĩa” đã bị sụp đổ, kéo theo việc cắt đứt viện trợ từ Liên Xô, trong khi Mỹ vẫn cấm vận và áp lực của Trung Quốc tiếp tục sau khi hai nước “bình thường hoá” quan hệ năm 1991), bộ phận bảo thủ, giáo điều trong Đảng vẫn nắm chặt nhiều vị trí quyền lực quan trọng, không cho phép những người “đổi mới” đi xa hơn về mặt chính trị – dù họ có muốn! Đối lại, chính những bộ phận kiên quyết nhất trong đổi mới, một phần do phải tập trung công sức vào những công việc điều hành kinh tế, phần khác do nhận thức của chính mình, cũng không coi trọng đầy đủ yêu cầu dân chủ hoá đất nước về các khía cạnh chính trị, xã hội, và mau chóng tự nguyện “xếp hàng” dưới ngọn cờ “ổn định chính trị” của phe bảo thủ. Người ta không thể quên khẩu hiệu “chống diễn biến hoà bình”[6] mà Đảng giương cao trong mọi dịp, trên mọi phương tiện truyền thông, từ những năm 1989-90. Ngoài mục tiêu răn đe đối với xã hội, nhất là “đám trí thức” (và một phần nhỏ là đối với những thành phần chống cộng ở hải ngoại, tuy đó là mục tiêu chính thức của khẩu hiệu này), hiển nhiên nó còn có vai trò trấn áp trong nội bộ Đảng, đối với những người muốn đẩy nhanh hơn tốc độ cải tạo nền kinh tế theo hướng thị trường và hệ luận của nó là xây dựng một nhà nước pháp quyền.[7]

 

Tóm lại, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam đã mềm dẻo khá nhiều đối với những nguyên tắc về kinh tế xã hội chủ nghĩa (tuy cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” luôn luôn được nhắc sau “kinh tế thị trường”), cho tới nay nó vẫn bám vững hay ít nhất là tỏ ra bám vững những nguyên tắc về tổ chức quyền lực chính trị, đặc biệt là trên địa hạt thông tin văn hoá.

 

2.    Ngoài những văn kiện nội bộ của Đảng, những văn bản pháp lý chính qua đó Đảng quản lý hoạt động của báo chí, thông qua bộ máy Nhà nước, gồm các đạo luật về báo chí, xuất bản, các nghị định của chính phủ hay quyết định của chính quyền các tỉnh về việc áp dụng các luật đó (quy định những chi tiết “kỹ thuật” mà luật dành quyền cho các cấp chính quyền), các quy tắc hành nghề do Hội Nhà Báo Việt Nam đặt ra, v.v. Cũng không thể quên pháp lệnh về Bảo vệ bí mật nhà nước (bản gần đây nhất đề ngày 28.12.2000), và tất nhiên các điều khoản liên hệ của các đạo luật hình sự, dân sự, v.v.

 

Luật báo chí được quốc hội thông qua ngày 28.12.1989,[8] trong khung cảnh chính sách “cởi trói” đối với báo chí và văn nghệ vừa được khép lại sau hai năm thực hiện, như trên đã nhắc lại, song đồng thời là trong bối cảnh chung của thời “mở cửa”, với các đòi hỏi ngày càng cấp thiết của các đối tác nước ngoài về việc xây dựng một nhà nước pháp quyền.

 

Mười năm sau, đạo luật được “sửa đổi, bổ sung” một số điều khoản. Trong khoảng 10 năm ấy, bộ mặt Việt Nam đã thay đổi khá nhiều, do công cuộc “đổi mới”. Tăng trưởng kinh tế được giữ vững nhờ kinh tế thị trường. Việt Nam từ một nước thiếu ăn triền miên trong những năm sau chiến tranh đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ nhì trên thế giới. Đối ngoại, việc mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng góp phần cải thiện quan hệ với thế giới. Sau khi hoàn thành rút quân khỏi Cam-pu-chia, quan hệ ngoại giao đã được nối lại với Trung Quốc (năm 1991), với Mỹ (1995) và tăng cường với các nước láng giềng (gia nhập tổ chức ASEAN năm 1995). Tuy nhiên, chính trị trong nước vẫn được Đảng khoá chặt với những khẩu hiệu “ổn định chính trị”, “chống diễn biến hoà bình”, dù rằng với những thành quả đạt được trong kinh tế, đời sống dân chúng dần dần dễ thở hơn hẳn, những cơ hội làm ăn sinh sống mở rộng, thu hút tâm trí và tài sức của người dân, tạo nên một sự ổn định tự nhiên của xã hội mà những thế lực cực đoan khó có thể phá vỡ. Những tiếng nói đòi dân chủ mất chỗ trên các phương tiện truyền thông chính thống từ cuối năm 1988, nhiều người tìm kiếm những phương tiện khác để phát biểu ý kiến của mình (thư gửi lãnh đạo Đảng, Quốc hội, và viết bài “phát tán” bằng sao chụp, trả lời phỏng vấn điện thoại của báo chí nước ngoài v.v.). Họ bị đàn áp thẳng thừng dù đó là những người từng giữ trọng trách trong Đảng. Trường hợp điển hình là trung tướng Trần Độ. Do tích cực ủng hộ cuộc đổi mới trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, ông bị mất chức trưởng ban Văn hoá – Văn nghệ trung ương vào tháng 5.1989.[9] Không chịu đổi cờ, tuân theo đường lối mới, ông bị khai trừ khỏi Đảng đầu năm 1995, điện thoại bị cắt, nhà cửa luôn luôn có công an đứng canh (nhưng Đảng không dám bỏ tù ông như đối với những người ngoài Đảng hoặc những đảng viên hay cựu đảng viên nhẹ ký hơn – như các ông Hoàng Minh Chính, Nguyễn Trung Hiếu, Lê Hồng Hà, nhà văn Dương Thu Hương…). Ngay cả một người như thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng phải mượn một bức “thư gửi Bộ Chính trị” để nói lên một số quan điểm của mình không đồng ý với bộ máy bảo thủ.[10]  Người ta chưa biết đích xác ai là người đã tung bức thư ra ngoài, song hai ông Lê Hồng Hà và Nguyến Kiến Giang đã bị kết án vì phổ biến thư này.[11]

 

3. Trong điều kiện đó, dễ hiểu là “tính đảng” của báo chí được thể hiện khá rõ trong bộ luật báo chí 1989, và được giữ vững trong bộ luật sửa đổi, bổ sung năm 1999. Tư duy chủ đạo của hai bộ luật này (xem thêm Phụ lục 1.) có thể tóm tắt ở hai điểm sau:

 

(1) Khẳng định báo chí trước hết là của Đảng (điều 1 – nguyên tắc chung –, các điều kiện chính trị để được hành nghề báo trong các điều 13, 14, 15 v.v.). Qua việc liệt kê (trong chương II, điều 4 – xin xem nguyên văn điều này trong Phụ lục 1.) những quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân, đạo luật gián tiếp nói rõ ngoài báo chí (của Đảng), người dân không có quyền tìm kiếm và phổ biến thông tin, không có quyền phát biểu những ý kiến mà các chức trách có thể đánh giá là “không xây dựng” ­– thế nào là ý kiến “xây dựng”? – với đường lối, chính sách của Đảng… Điều này không được  sửa đổi trong Luật 1999, dù có sự ra đời và lan rộng của Internet. Đạo luật cũng đề ra những thông tin báo chí có quyền và nhiệm vụ đăng tải (điều 6), có quyền tìm kiếm (điều 7) hoặc không có quyền đăng tải (điều 10).

 

(2) Việc tổ chức “quản lý nhà nước” đối với báo chí (điều 12 đến 20, trong đó các điều 12, 15, 17, 19 được bổ sung trong luật 1999), từ giấy phép khi ra báo – báo phải có một “cơ quan chủ quản” – đến việc xuất bản báo, kể cả việc họp báo của các tổ chức và công dân (điều 26), việc “xử lý các vi phạm”, phải tương ứng với nguyên tắc báo chí là của Đảng đó.

 

Một vài ví dụ:

-  Điều 13.2: “Người đứng đầu cơ quan báo chí phải là người (…) có đủ các tiêu chuẩn chính trị (…) do Nhà nước quy định”. Nghị định số 51/2002/NĐ-CP của chính phủ về “chi tiết thi hành” hai bộ luật báo chí không nói rõ thế nào là các tiêu chuẩn chính trị đó, chỉ ghi (trong điều 6.2) là “Cơ quan chủ quản báo chí bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức tổng biên tập, phó tổng biên tập (…) sau khi có sự thống nhất ý kiến bằng văn bản của bộ Văn hoá – Thông tin”. Nghĩa là để ngỏ các “tiêu chuẩn” cho sự đánh giá của các quan chức của Bộ, hay đúng hơn của ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương.

 

-  Điều 10, về những điều “không được thông tin trên báo chí” ghi như sau trong điểm 1.: “Không được kích động nhân dân chống Nhà nước CHXHCNVN, phá hoại khối đoàn kết toàn dân”. Nghị định nói trên của chính phủ “quy định cụ thể” điều này thành: “Không được đăng, phát những tác phẩm báo chí, nghệ thuật, văn học, tài liệu trái pháp luật, có nội dung chống đối nhà nước CHXHCNVN và phá hoại khối đoàn kết dân tộc”. Còn thế nào là tác phẩm có nội dung chống đối nhà nước hay phá hoại khối đoàn kết dân tộc thì dĩ nhiên, người có thẩm quyền đánh giá trên hết vẫn là “Đảng”, một thực thể như mọi người đều biết, có những phán quyết không bao giờ sai trong thì hiện tại!

Điều 28 của Luật 1989 và Luật “sửa đổi, bổ sung” 1999, về việc “xử lý các sai phạm” (về điều 10) cũng không nói rõ hơn thế nào là sai phạm, một lần nữa để ngỏ cho các cấp quản lý (chính thức là bộ Văn hoá – Thông tin ở trung ương và các sở văn hoá thông tin ở các địa phương, thực chất là ban tư tưởng – văn hoá và các cấp uỷ địa phương) thực thi quyền kiểm soát báo chí về các khía cạnh chính trị.[12]

 

Và trên thực tế, đó cũng là điều thường xuyên xảy ra. Ban Tư tưởng – Văn hoá có dư uy quyền để buộc một cơ quan chủ quản báo cách chức tổng biên tập tờ báo, dựa trên đánh giá của mình về “nội dung thông tin” trên tờ báo. Và thông qua bộ Văn hoá – Thông tin, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép xuất bản một tờ báo mà các đương sự không thể nhờ luật sư cãi lại trước một cơ quan tư pháp. Gần đây nhất là quyết định ngày 20.10.2006 của bộ Văn hoá – Thông tin, đình chỉ trong thời hạn một tháng hai tờ báo Thời Đại (thuộc Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam) và Công Lý về việc đăng bài viết về các bê bối chung quanh “đồng tiền polymer”. Theo Bộ Văn hoá – Thông tin, các tờ báo này vi phạm điều 6 (quy định “nhiệm vụ và quyền hạn” của báo chí) và điều 10. Chắc là Bộ muốn nói đến điểm 3 trong điều 10, về các bí mật không được nói tới, nhưng không nói rõ là bí mật nào của nhà nước đã bị tiết lộ. Mười ngày sau, tám tờ  báo khác[13] cũng bị bộ “xử phạt hành chính” về những vi phạm tương tự… Nói chung, những quyết định này, các báo được biết trước trong các cuộc họp “giao ban” mà ban Tư tưởng – Văn hoá họp hàng tuần với đại diện các báo và những quan chức liên hệ tới những chủ đề của cuộc họp. Những phê phán của ban đối với hoạt động của báo chí trong tuần trước, và những yêu cầu về thông tin – cả về chủ đề và định hướng tin – cần chú ý phát triển, được đề cập trong cuộc họp này. Chưa kể, ban còn thường xuyên “lưu ý” các báo cả về cách viết, văn phong v.v., như trong một buổi giao ban gần đây, về vụ tham nhũng đất đai tại Đồ Sơn, các báo bị trách là đã sử dụng những lời lẽ quá bộc trực của người dân khiến người đọc có cảm giác “phản cảm”! Nhà báo Trần Hữu Quang, trong bài “Khôi phục quy chế độc lập cho báo chí”,[14] đã nói thẳng là cơ quan chủ quản báo khó mà chỉ đạo gì được “một khi các tờ báo đều thường xuyên chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban Tư tưởng – Văn hoá”.

 

Các báo địa phương càng phải tuân theo những chỉ đạo, giám sát của các cấp uỷ. Ai cũng biết quyền lực gần như tuyệt đối của các bí thư tỉnh ủy. Mỗi tỉnh đều có bí thư tỉnh uỷ hoặc chủ tịch tỉnh là uỷ viên trung ương Đảng, ngang chức về mặt Đảng với bộ trưởng Văn hoá – Thông tin. Gần đây, sự kiện ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau đòi “kiểm điểm nghiêm khắc” tác giả truyện ngắn Cánh đồng Bất tận cho thấy tình hình “tư tưởng” ở những tỉnh nhỏ nặng nề như thế nào đối với các nhà văn, nhà báo (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị “đánh”, theo một số nguồn tin, còn vì chị là tác giả của nhiều bài báo không được “thuần” lắm, đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn – dù là nói chuyện ở tỉnh mình). Nhưng có lẽ ví dụ rõ nhất về sự chuyên quyền, tác oai tác quái của các quan tỉnh là những vụ trù dập nhà báo của ban lãnh đạo tỉnh Kiên Giang những năm 80, được nhà báo Hà Văn Thuỳ kể lại trong bài báo “về sự nghiệt ngã của nghề nghiệp” đăng trên Văn Nghệ ngày 20.8.1988.[15] Sau khi bài được đăng, chính tác giả bị “đấu tố”, tỉnh uỷ đe doạ bắt, truy tố, tới mức là cảm thấy “có thể nguy hiểm đến tính mạng”, ông phải rời khỏi tỉnh, lên Thành phố Hồ Chí Minh lánh nạn. Hà Văn Thuỳ đã kể lại sự việc mình bị “đánh” như thế nào ở Kiên Giang, hậu quả tới nay chưa dứt. Trong điều kiện thiếu thông tin, người ta chỉ có thể biết tới một số sự việc ít nhiều nghiêm trọng khi nó xảy ra. Những thông tin “thuận chiều”, dù là đơn điệu, dù không phản ánh những suy nghĩ của người dân trước cuộc sống, thì vẫn cứ đều đều diễn ra. Dù chúng có gây tai hại không nhỏ đối với lòng tin của người dân, những bài báo thuận tai các nhà lãnh đạo đó dĩ nhiên không hề bị coi là “vi phạm” luật. Những vụ bóc lột, chiếm đoạt đất đai của nông dân ở Thanh Hoá thời ông bí thư Hà Trọng Hoà,[16] hay ở Thái Bình, Tây Nguyên[17] mấy năm gần đây, có vụ nào mà báo chí của các tỉnh liên hệ dám đưa tin, viết bài trước khi xảy ra bùng nổ vì sức chịu đựng của người dân đã bị đẩy đến cùng cực? Không phải ngẫu nhiên mà báo chí (trung ương) phản ánh nhiều về những vụ “khiếu kiện vượt cấp” ở hầu như khắp các tỉnh thành, nhất là trong các vụ tranh chấp đất đai đối với các quan chức.

 

4.    Những điều tóm tắt trên đây cho thấy báo chí Việt Nam không phải chỉ hoạt động trong một khung pháp lý dù có khắt khe nhưng vẫn rõ ràng, minh bạch, mà là dưới cả một chiếc vòng kim cô pháp lý – chính trị nghiệt ngã, cho phép những người có quyền thế quá nhiều tuỳ tiện để niệm chú làm đau đầu các nhà báo.

 

Hệ luận trực tiếp là, nếu không bị ngăn chặn thì chính các nhà báo cũng tự hạn chế những điều tra, phóng sự của mình, tránh không đi sâu quá vào các ngõ ngách đầy hiểm nguy. Tầm nhìn của xã hội vào những hoạt động của guồng máy bị giới hạn, khả năng phát hiện những trục trặc, sai sót của guồng máy đó bị giảm thiểu, và sân chơi của những thế lực đen tối lợi dụng quyền, chức, dĩ nhiên rộng mở hơn. Một “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?” làm nổi bật thực trạng cường hào ở nông thôn, góp phần đánh đổ thế lực đen của ông bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá. Tổng biên tập tờ báo đăng bài phóng sự nổi tiếng đó ít lâu sau bị cách chức, tất nhiên không trực tiếp vì bài báo, song những phóng sự “gai góc” cũng biến dần trên các báo khác và mấy năm sau hàng loạt vụ “nổi loạn” của nông dân ở Thái Bình và nhiều tỉnh khác nổ ra. Và nạn tham nhũng tăng dần tới mức trở thành quốc nạn, như chính những người lãnh đạo cao nhất của Đảng đã từng phải thốt lên, trong khi ban Tư tưởng – Văn hoá không bao giờ quên nhắc nhở báo chí về những lằn ranh không thể vượt qua trong các vấn đề “nhạy cảm”[18] … 

 

Hệ luận thứ hai, không kém phần quan trọng, là hạn chế những tranh luận có thể căng thẳng nhưng vô cùng cần thiết trong một xã hội hiện đại đầy phức tạp, hạn chế những tìm tòi, thử nghiệm cách tiếp cận mới, góc nhìn mới vào những khó khăn, bế tắc đang gặp phải. Ví dụ hiển nhiên nhất là sự phá sản không được hệ thống truyền thông báo trước của đường lối, chính sách kinh tế của hai Đại hội Đảng IV và V. Nhưng không chỉ có thế. Hiện nay, các báo vẫn chỉ có quyền đăng những thông tin chính thức về đối ngoại, về hoạt động của các nhà lãnh đạo Đảng, chưa hề có những phản biện về các chính sách, về những hoạt động ấy.[19] Đó chỉ là hai ví dụ. Nói chung hơn, phê phán hay chỉ đặt câu hỏi về tính khả thi, tính chính đáng của những nghị quyết của Bộ Chính trị hay Trung ương Đảng, những chỉ thị của các nhà lãnh đạo cao cấp, là chuyện không thể đưa lên mặt báo, hoặc chỉ được đưa lên khi những nghị quyết, chỉ thị đó đã tỏ ra bất lực hoặc có hiệu quả tiêu cực so với mục tiêu đề ra.

 

 

 

II.  …đã bị/được nới lỏng

 

Tuy nhiên, những phân tích trong phần trên không phản ánh hết tình hình của báo chí trong nước. Đạo Luật Báo chí 1989, với những điều khoản ràng buộc nhà báo trong chức năng “cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng” như nói trên, dầu sao cũng là đạo luật đầu tiên quy định khung pháp chế cho hoạt động báo chí. Và trong bối cảnh chung của chính sách “mở cửa” dưới áp lực của các đối tác nước ngoài về việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, với những đòi hỏi của xã hội về đổi mới các chính sách kinh tế – xã hội (công nhận kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là phải bãi bỏ những chính sách kỳ thị thành phần xã hội, phải tôn trọng quyền tự do đi lại cho người ta làm ăn, sinh sống v.v.) nhiều tờ báo cũng biết dựa vào những điều khoản mở hơn trong luật để tự đổi mới, đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu thông tin của người đọc. Quyền và nhiệm vụ “Thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới”,[20] và “Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân” (điều 6), chẳng hạn, là cơ sở pháp lý để báo chí đòi hỏi được theo dõi các kỳ họp Quốc hội, phỏng vấn các đại biểu, phỏng vấn các bộ trưởng hay các quan chức chính phủ hoặc quan chức địa phương, và cả những công dân bình thường mỗi khi có sự việc liên quan đến họ. Điều 7 quy định “các tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin” và “Báo chí có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ tên người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó” (trừ trường hợp có yêu cầu của toà án khi cần điều tra, xét xử “tội phạm nghiêm trọng”) cũng cho phép các báo bảo vệ những người cung cấp những thông tin chống tiêu cực.

 

Nếu hiểu “mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới” là… mọi mặt trừ những vấn đề “nhạy cảm” (hiển nhiên có nhiều mức độ, có lẽ cao nhất là những tin tức “tiêu cực” dính tới các uỷ viên Bộ Chính trị hay Ban Chấp hành Trung ương, nếu không được bật đèn xanh thì không báo nào dám đăng) thì thông tin trên báo chí vài năm gần đây đã khác xa thời trước. Chẳng hạn năm 1997, vụ nông dân Thái Bình biểu tình bạo loạn xảy ra hồi tháng 5, tới đầu tháng 9 người ta mới đọc được một mẩu tin nhỏ trên báo Nhân Dân cho biết phong trào nông dân đã lan ra 128 xã, 7 huyện. Vụ bạo động ở Tây Nguyên trong dịp lễ Phục sinh năm 2004 đã được các báo đưa tin nhanh hơn nhiều. Sự việc xảy ra ngày 10.4, hai ngày sau, Tuổi Trẻ đăng tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao và 6 ngày sau tờ báo có bài đầu tiên của “nhóm phóng viên và cộng tác viên Tuổi Trẻ tại Tây Nguyên”.

 

Những thông tin bình thường về cuộc sống trong xã hội như thiên tai, bệnh dịch, tai nạn giao thông nghiêm trọng, án mạng, trộm cướp v.v. đã trở thành… bình thường trên mặt báo. Tin thể thao, văn hoá, văn nghệ cũng khởi sắc hơn (chưa kể khuynh hướng nói về đời tư cá nhân đang phát triển trên một số báo, như trong chuyên mục “văn hoá” của báo VnExpress). Tin chính trị thế giới cũng được đưa nhanh hơn (nhất là từ khi có các báo điện tử), đôi khi với vài lời bình luận riêng của tờ báo. Ngoại lệ đáng kể nhất trong lĩnh vực này có lẽ là những tin về chính trị nội bộ của Trung Quốc.[21] Rất nhiều bài viết về các vấn đề văn hoá, giáo dục, y tế, xây dựng, giao thông, bưu chính viễn thông v.v., hay một vài vấn đề xã hội “nhạy cảm” như các cuộc đình công, có hàm lượng thông tin cao và khả tín, có nội dung phê phán các bộ, ngành liên quan. Những bài báo về các nạn nhân bị trù dập của các cơ quan chính quyền hoặc của một quan chức, một công an viên… cũng ngày càng nhiều, kể cả những trù dập vì lý do chính trị – trong quá khứ![22]

 

Do tính chất của cuộc “đổi mới”, mảng tin kinh tế cả đối nội và đối ngoại (các sự việc xảy ra và các chính sách) dĩ nhiên được mở rộng nhất. Một số báo chuyên ra đời, như Thời báo Kinh tế Việt Nam, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Diễn đàn Doanh nhân, Sài Gòn Tiếp thị v.v. Những bài viết về thị trường của từng mặt hàng, từng loại sản phẩm hay dịch vụ, về thuế má, cạnh tranh, về tốc độ tăng trưởng hay lạm phát, về xuất khẩu lao động, về ASEAN hay WTO, v.v., cho người đọc thấy rõ hơn (so với báo chí trước “đổi mới”) toàn cảnh của nền kinh tế, làm quen với những khái niệm mới (không có hoặc mang ý nghĩa khác trong nền kinh tế “xã hội chủ nghĩa”), những thuật ngữ mới diễn tả cơ chế vận hành của một nền kinh tế thị trường, và cả những quyền mới của người dân trong hoạt động cơ bản nhất của mình: làm ăn sinh sống.

     

Gần đây hơn, những bài viết về chuyện tiêu cực tại PMU 18 và những bài viết “góp ý với Đảng” nhân chuẩn bị Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam – có thể ghi mốc khởi đầu là loạt bài “Đêm trước đổi mới” của Tuổi Trẻ cuối năm 2005, tuy chính thức đó không phải là một bài góp ý với đại hội  –, với một không khí thảo luận chưa từng thấy, một số vùng cấm kỵ bị đẩy lui. Như trong vụ PMU 18, không chỉ tấn công vào chống tham nhũng, các báo còn viết nhiều về việc chạy án của Bùi Tiến Dũng, và trên đà đó, đề cập luôn tới các vấn đề chạy chức, chạy quyền, và qua trường hợp của bộ trưởng Đào Đình Bình, nêu vấn đề chung về “văn hoá từ chức”. Trong vụ bê bối của Hàng không Việt Nam (mua máy bay đường dài và động cơ không đủ sức, cấp học bổng du học cho con em các quan chức học kém, chi tiêu hoang phí trong các chuyến đi công tác nước ngoài của lãnh đạo công ty, v.v.), tạp chí Người Làm Báo (ngày 1.7.2006) đã đặt lại vấn đề lạm dụng bí mật nhà nước để ngăn cản hoạt động của nhà báo. Tác giả bài viết cũng nhắc lại sự kiện nhà báo Lan Anh, báo Tuổi Trẻ, bị truy tố về tội sử dụng tài liệu bí mật của nhà nước, trong khi đó chỉ là một công văn của Bộ Y tế về việc yêu cầu thanh tra công ty dược phẩm nước ngoài có độc quyền phân phối một số thuốc tây, và nâng giá lên quá cao. Nhà báo Lan Anh này cũng chỉ thoát vòng lao lý khi được dư luận đồng loạt bênh vực, bảo vệ (Tuổi Trẻ 22.4.2005). Những vụ tham nhũng đất đai nổi cộm, như vụ Đồ Sơn, Trị An,[23] hay vụ “hoá giá nhà” của các quan chức cap cấp ở Hà Nội gần đây, cũng là dịp để báo chí đặt ra nhiều vấn đề cơ bản như yêu cầu xét xử độc lập của toà án, sự minh bạch trong quản lý tài sản nhà nước…

 

Nói cho đúng, không phải bây giờ người ta mới thấy trên mặt báo Việt Nam một số bài “chống tiêu cực”. Nhưng có thể nói, trên những tờ báo như Tuổi Trẻ, VietNamNet, VnExpress, Lao Động, Thanh Niên, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Sài Gòn Tiếp thị, v.v..[24] trong năm qua, cái khác so với thời “đổi mới” năm 1986-87 không phải là sự nhân lên gấp đôi, gấp ba những bài viết chống tiêu cực mà là sự có mặt khá hùng hậu của nhiều bài viết đặt những vấn đề sâu hơn, cơ bản hơn, của những nhà báo, trí thức làm trong hay ngoài bộ máy và nhất là của độc giả bình thường, trên các báo mạng.

 

Một cán bộ trẻ, thạc sĩ Đinh Trọng Thắng đã dám đề xuất (trên VietNamNet 10.2.2006) “Phát động đổi mới II: thời cơ vàng không nên bỏ lỡ” –  lấy ý từ loạt bài mang tựa “Thời cơ vàng” của Nguyễn Trung đăng trên VietNamNet và Tuổi Trẻ từ 6.1.2006.  Nên nhớ Đảng Cộng sản chưa chính thức đề ra một giai đoạn đổi mới II, và ngay trong Báo cáo Chính trị của Đại hội X, hơn hai tháng sau, cũng không đặt vấn đề này. Nhà báo Trần Hữu Quang trên diễn đàn edu.net.vn của bộ Giáo dục và đào tạo ngày 17.3.2006,[25] đã đưa ra khái niệm “tội nói khác”, để diễn tả tình trạng những sinh viên học sinh bị ghét bỏ hay bị điểm xấu vì ưa tranh luận, không chịu khuôn theo bài giảng của thầy, cô. Nhưng ông Quang không quên mở rộng vấn đề sang địa hạt tư tưởng nói chung, và sau khi nói tới hậu quả tai hại của nạn “đóng cửa tư duy”, đã nhắc lại yêu cầu cơ bản về tự do tư tưởng để nhân tài có thể nảy nở.

 

Cuộc tranh luận chính được văn kiện chuẩn bị Đại hội X gợi ý xoay quanh vấn đề chấp nhận đảng viên làm kinh tế tư nhân, tuy “thực tế ý nghĩa không phải là lớn đối với toàn xã hội”[26] cũng là dịp cho một số bài báo đòi trở lại khái niệm bóc lột nói riêng và nhiều vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Marx nói chung. Bài viết của Đinh Trọng Thắng đã thúc đẩy VietNamNet mở ra nguyên một chuyên mục “Đổi mới II: đổi mới thế nào?” kéo dài cho đến ngày Đại hội Đảng với những bài được đăng như: “Giải phóng tư duy - nội dung cơ bản của đổi mới lần II”, “Công khai đảng viên ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ương trên báo” “Không nên nghĩ nhiều về khái niệm bóc lột”, “quyền tự do tư tưởng”…

 

Tuy nhiên, loạt bài “Thời cơ vàng” của cựu đại sứ Nguyễn Trung mới thu hút sự chú ý của người dân (và của các quan chức tư tưởng – văn hoá!). Trong bài viết của mình, ông Nguyễn Trung đặt thẳng vấn đề tối cấm kỵ “đa nguyên đa đảng”, tuy dưới dạng câu hỏi đặt ra cho Đảng:  

Loại bỏ những ý đồ thù địch với CHXHCN VN, trong dư luận xã hội đại thể có hai loại ý kiến về sự ứng xử này (đối với sự “hẫng hụt về trí tuệ và phẩm chất” mà ông đã phát triển trước đó):

- đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đa nguyên đa đảng để có tự do dân chủ cho phát triển;

- Đảng phải khắc phục bằng được sự hẫng hụt của mình để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo.

Thế nhưng người đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) nói riêng và toàn Đảng nói chung lựa chọn sự ứng xử nào?

Ông Trung không trực tiếp trả lời câu hỏi này, mà chỉ đưa thêm một nhận xét: Ý kiến đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng để thực hiện đa nguyên đa đảng để có tự do dân chủ dựa trên lập luận: ĐCSVN không thể bước qua cái bóng của mình rồi đưa ra câu hỏi tiếp: “ĐCSVN có vượt qua được cái bóng của mình không?”. Câu này cũng chỉ được ông trả lời gián tiếp qua khẳng định: “Sống là mỗi ngày phải vượt qua cái bóng của mình!”, và “Dù là hệ thống chính trị chỉ có một đảng, yếu tố đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng không phải là bảo hộ vị thế độc quyền của nó, mà trước hết và duy nhất là nâng cao phẩm chất và năng lực lãnh đạo của nó”.

 

Trong hàng ngàn thư phản hồi của độc giả Tuổi Trẻ và VietnamNet, có người đã mạnh dạn viết thẳng là đã đến lúc phải thực hiện “đa đảng”, và thư được đăng, buộc ông Trung phải nhắc lại luận điểm cẩn trọng của ông. Song hiển nhiên cả ông Trung và hai tờ báo đã đụng tới vùng cấm sâu nhất. Trong khuôn khổ những bài viết “góp ý với đại hội Đảng”, có thể các báo không bị làm khó dễ gì lắm, nhưng chỉ hơn hai tháng sau, ngày 17.5.2006, Cục Xuất bản bộ Văn hoá – Thông tin đã yêu cầu Nhà Xuất bản Trẻ không in nối bản, tái bản cuốn Thời cơ vàng đã mau chóng được bán hết trong lần in đầu, đồng thời yêu cầu Nhà Xuất bản Tri Thức “thực hiện việc không phát hành”(sic) cuốn Tranh luận để đồng thuận, trong đó in lại bài Thời cơ vàng và nhiều bài khác “góp ý với đại hội Đảng”.[27]

 

Có phải chiếc vòng kim cô tương đối nới lỏng những tháng trước đại hội nay đã siết lại? Nghị định về “xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hoá thông tin” và vụ đình chỉ hai tờ báo và xử phạt hành chính với tám tờ khác trong tháng 10 vừa qua cho thấy cuộc đấu tranh cho một nền báo chí đích thực, thoát khỏi những sức ép của quyền lực (trong trường hợp này là quyền lực chính trị, vấn đề dĩ nhiên cũng đặt ra với những quyền lực kinh tế), luôn luôn không đơn giản. Nghề báo, dù sao cũng vẫn là một nghề đầy nguy hiểm.

 

Song thời thế cũng đã thay đổi cả với người cầm quyền. Những đòi hỏi về nhà nước pháp quyền, về minh bạch guồng máy nhà nước, ngày càng có trọng lượng kể cả từ trong bản thân xã hội Việt Nam đã có nhiều biến chuyển hai mươi năm qua, với sức mạnh ngày càng lớn của nền kinh tế tư nhân, và từ những đối tác làm ăn bên ngoài, không có dấu hiệu ngừng lại. Nhất là với việc Việt Nam vừa gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Bản thân nhiều tờ báo đã tự lập về kinh tế, không còn sống bằng đồng lương bao cấp của “cơ quan chủ quản”, và năng lực nghề nghiệp đã nâng cao trong những năm qua. Trong tháng 9, một tờ báo đã có thể từ chối không trả lời câu hỏi của công an về người cung cấp thông tin cho báo, dựa trên điều 7 của Luật Báo chí (xem Tạp chí Nghề báo 19 và 24.9.2006). Đình chỉ giấy phép của hai tờ báo nhỏ khác với đụng đến những tờ đã xây dựng được uy tín của mình qua thử thách hàng chục năm nay, với lượng độc giả cả trong và ngoài nước (qua Internet) hàng triệu người… Do đó, dù người ta chắc sẽ khó thấy xuất hiện trở lại một bài báo đặt thẳng vấn đề cơ cấu quyền lực chính trị của Đảng (đại hội đảng chỉ họp 5 năm một lần và giữa hai kỳ họp, coi như đường lối đã thông qua, có giá trị đến kỳ tới), song có thể nào ngăn chặn những bài báo khác, về những khía cạnh cụ thể hơn trong sự vận hành của guồng máy quyền lực ấy? Từ những bài viết về các cuộc tranh chấp đất đai đến những bài phê phán ông chủ tịch Hội Nhà văn đạo văn, qua những bài về đường lối và quản lý giáo dục, về sự điều hành những công trình xây dựng lớn, về sử dụng nguồn vốn viện trợ ODA, những bài nêu lên các vấn đề liên quan trực tiếp tới số phận của giới doanh nhân, v.v.; tóm lại, những bài phản ánh sự hình thành của một xã hội công dân, tuy chỉ mới manh nha nhưng đã là một sân chơi đủ rộng cho nhà báo mài bút của mình, như những ví dụ trong phần II cho thấy.

 

Phải chăng, trong khi chưa có một nền báo chí thực sự độc lập, đó cũng là đóng góp cụ thể cho công cuộc dân chủ hoá đất nước, và chính là vận hội mới mà báo chí Việt Nam không thể bỏ qua?

 

 

Hà Dương Tường

 

Một số ý của bài đã được trình bày trong Hội Thảo Hè 2006 “Dân chủ và Phát Triển”, tổ chức tại Berkeley (California, Hoa Kỳ) ngày 28-29/7/2006.  Nhiều ví dụ, dẫn chứng được cập nhật khi chuyển từ các ý của bài nói thành bài viết (cuối tháng 11.2006).

 

 


 

Phụ lục 1
Luật báo chí 1989 và 1999

 

Điều 1 của Luật 1989 khẳng định “Báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (…) là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức); là diễn đàn của nhân dân”. Và điều 6.2 giao cho báo chí nhiệm vụ “Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước…”.

 

Những quyền “tự do báo chí, tự do ngôn luận” ghi trong các Hiến pháp năm 1980 cũng như Hiến pháp năm 1992, được đóng khung chặt chẽ trong điều 4: 

Công dân có quyền:

1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới;

2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin;

3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới;

4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.”

Về tổ chức, báo phải có “cơ quan chủ quản là tổ chức đứng tên xin giấy phép hoạt động của báo chí và trực tiếp quản lý cơ quan báo chí” (điều 12), “Người đứng đầu cơ quan báo chí phải là người (…) có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định” (điều 13).  Điều 14 nhắc lại điều kiện này với các nhà báo. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí ghi rõ một trong những nghĩa vụ của các nhà báo là phải: “Bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát hiện, bảo vệ nhân tố tích cực; đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm” (điều 15, đoạn 2b), “Thường xuyên học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chính trị…” v.v.

 

Cần nói rõ là Điều 12 hoàn toàn không cho phép một tổ chức tư nhân đứng tên xin giấy phép ra báo, vì đơn giản là ở Việt Nam không hề có tổ chức phi chính phủ nào. Và theo Dự thảo Luật về Hội đang được bàn cãi – thông tin tháng 6.2006 ­–, bộ Nội vụ vẫn muốn những hội đoàn được phép thành lập phải có một “bộ chủ quản”, và nhân sự lãnh đạo các hội phải được cấp trên thông qua…

 

Có lẽ cần thêm một điểm nữa, có thể ít người để ý, nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của báo chí ở các địa phương. Điều 17a, trong Luật “sửa đổi, bổ sung”, nói về cơ quan quản lý báo chí, tuy xác định “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí”, vẫn giữ lại câu sau đây của điều 17 trong bộ Luật năm 1989: “Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý nhà nước về báo chí trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ” (chỉ thay đổi mấy chữ cuối “theo sự phân cấp do Hội đồng bộ trưởng quy định”). Một hệ luận của nó được quy định tại điều 19a (Luật sửa đổi, bổ sung): “Cơ quan báo chí có nhu cầu thành lập cơ quan đại diện, cơ quan thường trú ở trong nước phải có đủ điều kiện về nhân sự, trụ sở và phải được sự đồng ý bằng văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ quan báo chí xin đặt cơ quan đại diện, cơ quan thường trú và phải thông báo cho Bộ Văn hóa - Thông tin biết”.

 

Ngoài ra, Luật 1999 có thêm quy định về nghĩa vụ pháp lý của nhà báo phải cải chính, xin lỗi khi bị đối tượng của một bài báo phản hồi là bài báo đăng thông tin sai lệch về mình, hoặc ít ra là phải đăng và trả lời phản hồi đó (điều 9), về tài chính của báo chí (điều 17c) cho pháp “Cơ quan báo chí được tổ chức hoạt động kinh doanh, dịch vụ phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ của mình…”.

 

Điều 28 của Luật 1989, về “xử lý vi phạm”, ghi trong điểm 1:

 

Cơ quan báo chí, tổ chức khác vi phạm quy định về giấy phép hoạt động báo chí, về nội dung thông tin trên báo chí, về cải chính do thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống và các quy định khác của Luật này thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị cảnh cáo, phạt tiền, thu hồi, tịch thu ấn phẩm, băng, đĩa ghi âm, ghi hình, đình bản tạm thời hoặc thu hồi giấy phép theo quy định của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính…”. Trong Luật “sửa đổi, bổ sung” năm 1999, cụm từ “nội dung thông tin trên báo chí “được thay thế bằng « những điều không được thông tin trên báo chí quy định tại điều 10 của Luật báo chí”. “Rõ” hơn, nhưng kẹt là bản thân điều 10 lại để ngỏ quyền đánh giá về nội dung quan trọng nhất: thế nào là “kích động nhân dân chống nhà nước CHXHCNVN”! 

 

Xử lý hành chính cũng có nghĩa là không có sự can thiệp của các toà án. 

 

 

Phụ lục 2
Một vài dữ liệu

 

Theo thống kê của bộ Văn hoá – Thông tin, tính đến tháng 6.2005, Việt Nam có 553 cơ quan báo chí với 713 ấn phẩm các loại, trong đó có 157 tờ báo và 396 tạp chí, chưa kể khoảng 1000 bản tin (Nhân Dân 21.6.2005, trích theo Trần Hữu Quang, “Xã hội học báo chí”, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh tháng 3.2006). Hơn 14 000 người được cấp thẻ nhà báo.

 

Tất cả 64 tỉnh, thành trên cả nước đều có báo, đài phát thanh và truyền hình riêng của mình. Cũng tại thời điểm giữa năm 2005, cả nước có hơn 50 tờ báo điện tử (phần lớn là phiên bản điện tử của một tờ báo giấy), khoảng 2 500 trang thông tin điện tử (website).

 

Thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin cũng cho thấy gần một nửa (46,8%) số lượng ấn bản báo chí cả nước được sản xuất và phát hành từ Thành phố  Hồ Chí Minh (313,1 triệu ấn bản so với 669,7 triệu – số liệu năm 2004).  Những tờ báo có số phát hành cao nhất (năm 2004) là: An ninh Thế giới (khoảng 500.000 tờ/kỳ), Tuổi Trẻ (335.000/ngày), Công an Thành phố Hồ Chí Minh (tuần ra hai kỳ, khoảng 300.000/kỳ), Thanh Niên (khoảng 150.000/ngày), Nhân Dân (170.000/ngày), Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (tuần ra 3 kỳ, khoảng 120.000/kỳ), Quân đội Nhân dân (khoảng 80.000/ngày)…

 

Còn về báo điện tử, rất khó tìm những thông tin chính xác, vì ngoài những tờ báo có “mặt tiền ngoài phố” theo cách nói của người Pháp, còn rất nhiều trang web được cập nhật thường xuyên, có tính cách như một tờ báo (về văn nghệ, thể thao, hay xi-nê chẳng hạn), nhưng tác giả không xin phép ai, mà Bộ Văn hoá – Thông tin chắc cũng không thể “quản” nổi! Trong chuyên mục “báo điện tử” của trang web vietnamjournalism.com (Diễn đàn nghiệp vụ báo chí Việt Nam), khi chúng tôi mở ra ngày 10.7, thấy bài mới nhất ra ngày 20.4. Website của Hội Nhà Báo Việt Nam thì mới được khai trương ngày 20.6 vừa qua, 5 năm sau tờ báo mạng VnExpress và 7 năm sau tờ VnEconomy, phiên bản điện tử của tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam, tờ báo đầu tiên (trong nước) được đưa lên mạng. Một bài báo ngày 21.6.2005 (một năm trước đây) của tờ Gia đình & Xã hội cho biết, tới thời điểm đó có 3 tờ báo “thuần mạng” ở Việt Nam là VnExpress, VietnamNet và VnMedia, cộng với khoảng 30 tờ báo có phiên bản điện tử.

 

Theo “Trung tâm Internet VN” ngày  3-6-2006,  số người sử dụng Internet vào tháng 4.2006 ước tính khoảng hơn 12,5 triệu, tức 15% dân số, trong đó có trên 227 000 người có đường truyền nhanh (băng thông rộng, hay ADSL). Dịch vụ ADSL đã có mặt tại hâu hết các tỉnh thành trong cả nước.

 

Với chỉ có 15 % dân số sử dụng Internet, chưa thể khẳng định báo điện tử là kênh thông tin quan trọng nhất để nhìn vào xã hội VN. Nhưng, chỉ lấy một ví dụ, tờ VnExpress ngày 21.6.2006 cho biết hàng ngày tờ báo có 1,5 triệu (lượt) người vào xem. Với sự cập nhật nhiều lần trong ngày tin tức cả trong và ngoài nước, với khối lượng bạn đọc lớn hơn nhiều so với báo giấy và có thể nói là có “mặt bằng tri thức” chắc cũng cao hơn trung bình, chắc chắn ảnh hưởng của báo điện tử không thể chỉ được đánh dấu bằng con số 15 % kia. Đó cũng là lý do mà người viết bài này mạnh dạn viết dù chỉ dựa trên một số báo điện tử có nội dung chính trị - xã hội – kinh tế.

 

 

Chú thích
 

[1] Ví dụ, bài “người làm báo nhìn và viết sự thật” của Xuân Thu (Sài Gòn Giải Phóng,  11.6.1986) hay những ý kiến phát biểu trong cuộc “toạ đàm về đổi mới chính sách thông tin” do báo Tuổi Trẻ tổ chức nhân “ngày báo chí cách mạng” 21.6.1987. Chung quanh ngày 21.6 mỗi năm, các báo trong nước thường có bài viết về nghề báo.

 

[2] Xem Đoàn Kết, số 400, tháng 3.1988.

 

[3] Ngay từ tháng 9.1988, Hội Nhà văn đã ra nghị quyết lên án báo Văn Nghệ “có những khuyết điểm và lệch lạc, trong đó có những lệch lạc nghiêm trọng”. Nhà văn Nguyên Ngọc bị cách chức tổng biên tập hai tháng sau đó. Việc “uốn nắn” báo Văn nghệ thực ra chỉ là bước đầu cho một đợt “chỉnh huấn” rộng lớn hơn nhiều với báo chí. Hai tờ báo Độc lập (của Đảng Xã Hội) và Tổ Quốc (của Đảng Dân Chủ bỗng nhiên tuyên bố “hoàn thành sứ mạng lịch sử” và cùng đóng cửa với hai đảng này. Như nhà thơ Nguyễn Duy trả lời báo Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 18.12.1988, “Nếu quyết định nói trên của Ban thư ký Hội Nhà Văn (về việc “uốn nắn” báo Văn Nghệ và cách chức tổng biên tập Nguyên Ngọc) được công nhận là hợp lý, hợp tình thì việc đó xác nhận một sự thất đáng buồn là: cánh cửa đổi mới báo chí vừa hé mở đã đột ngột đóng sập lại, làm cho có người bị kẹp tay và nhiều người thất vọng”. Các báo chí “đổi mới” lần lượt khép lại những bài viết về các vấn đề “nhạy cảm”… Nhà văn Dương Thu Hương đánh giá (trả lời phỏng vấn của báo Phụ Nữ Thành phố Hồ Chí Minh ngày 24.12.1988) một cách xác đáng: “Đối với khát vọng của quần chúng, những thành tựu của báo chí, văn nghệ vừa qua chưa thấm tháp gì. Theo tôi, nó mới thực hiện được phần nào chức trách công khai hoá, và rất ít ỏi yếu tố dân chủ hoá…”.

 

[4] Xem loạt bài “Đêm trước đổi mới” trên báo Tuổi Trẻ bắt đầu từ 30.11.2005.

 

[5] Xin chớ hiểu một cách đơn giản rằng chuyện nghiêm ngặt giữ cửa ý thức hệ này xuất phát hoàn toàn từ lòng tin trong sáng của những người phụ trách lĩnh vực này trong Đảng. Tỉ lệ những người có hay còn giữ được lòng tin đó chắc không đến nỗi bằng không, song cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, lòng tham quyền lực và những nhu cầu trần tục khác là yếu tố đáng tin cậy hơn nhiều khi phân tích hành động của những cá nhân có vai trò nào đó trong xã hội.

 

[6] Xem bài “Diễn biến hoà bình: nguy cơ hay hoả mù?” của Nguyễn Ngọc Giao trên Diễn Đàn số 30, tháng 5.1994.

 

[7] Trong Thư gửi Bộ Chính trị để chuẩn bị cho Đại hội VIII tháng 8.1995 (đăng lại trên Diễn Đàn số 48, tháng 1.1996), thủ tướng Võ Văn Kiệt, có thể coi như “thủ lĩnh” của phe đổi mới, đã phải dành một phần lớn công sức để tranh luận với những luận điểm coi các chính sách kinh tế của chính phủ là đang đi “chệch hướng” (của chủ nghĩa xã hội), và để bảo vệ cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền. Trong một đoạn của lá thư, ông Kiệt đã phản công bằng khẳng định “Chệch hướng và diễn biến hoà bình sẽ có thêm mảnh đất màu mỡ để bung ra” nếu tiếp tục để cho tình trạng làm ăn trái pháp luật, tham nhũng, tiêu cực phát triển. Không phải tự nhiên mà hai cụm từ “chệch hướng” và “diễn biến hoà bình” được ông gắn với nhau.

 

[8] Năm 1999 (ngày 12.6), Luật này được sửa đổi, bổ sung một số điều khoản. Bạn đọc có thêm xem toàn văn đạo luật trên website của Quốc hội: http://qppl.egov.gov.vn/congbao.nsf/ . Trên cùng trang web, bạn có thể tìm đọc Luật xuất bản. Luật này được quốc hội thông qua ngày 3.12.2004, thay thế hoàn toàn (chứ không phải chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều khoản) đạo Luật xuất bản trước đó được thông qua ngày 7.7.1993.

 

[9] Ban này bị sát nhập vào ban Tuyên huấn, trở thành ban Tư tưởng - Văn hoá từ thời điểm này, và ông Trần Trọng Tân được cử làm trưởng ban, đương nhiên ông Trần Độ không còn chức vụ lãnh đạo văn hoá – văn nghệ.

 

[10] Xem chú thích 7. Cũng xin nhắc lại, tháng 10.1991, trong một bài trả lời phỏng vấn của báo Le Monde, ông Kiệt lúc đó là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đã đưa ra ý tưởng chọn những bộ trưởng “không nhất thiết phải là uỷ viên trung ương Đảng, và có lẽ cũng không bó buộc phải là đảng viên” (xem Diễn Đàn số 2, tháng 11.1995). Đó là thời điểm Đảng Cộng sản đang chuẩn bị đại hội VII và Hiến pháp mới, thay thế Hiến pháp 1980, nhằm đưa khái niệm “kinh tế thị trường” vào văn bản này. Tuyên bố của ông Kiệt được đón nhận bằng một im lặng dễ hiểu, và khi được cử lại làm thủ tướng năm sau, nội các của ông vẫn chỉ bao gồm những uỷ viên trung ương đã được ban tổ chức thông qua.

 

[11] Có nguồn tin nói rằng chính ông Nguyễn Hà Phan – một uỷ viên “đang lên” của bộ chính trị - phát tán thư này để hạ ông Kiệt. Bị tố cáo là đã khai báo với địch lúc bị bắt trong thời chiến, ông Phan bị mất chức và khai trừ khỏi Đảng ít lâu sau.

 

[12] Một nghị định mới đây của chính phủ (mang số 56/2006/NĐ-CP, có giá trị từ ngày 1.7.2006) đề ra tới 76 quy định về các “vi phạm hành chính” của báo chí. Chen vào những quy định có tính chất kỹ thuật là những quy định có tính chất chính trị, đủ mơ hồ để cho phép chính quyền tự do diễn giải mỗi khi cần thiết! Điển hình là sự phân biệt trong tự do báo chí hai phạm trù “tự do có lợi” và “tự do không có lợi” mà bộ trưởng Văn hoá – Thông tin Phạm Quang Nghị đưa ra khi trả lời báo chí về việc một số báo đưa tin trong vụ PMU 18 “không hoàn toàn chính xác, làm cho tính bức xúc của xã hội tăng lên rất nhiều”. Xem bài của Hải Vân trên báo Diễn Đàn số 164, tháng 7.2006.

 

[13] Các tờ Nhà báo và Công Luận (của Hội Nhà Báo Việt Nam), Sài Gòn Tiếp thị (thuộc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Thành phố), Người Lao Động (của Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí Minh), Tuổi Trẻ, Thanh niên, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Thể thao và Văn hoá, An ninh thủ đô. (xem bản tin của Diễn Đàn: http://www.diendan.org/viet-nam/111an-ap-bao-chi/).

 

[14] Tia Sáng ngày 20.6.2006. Trong bài này, tác giả chủ yếu đề nghị thay đổi chế độ chủ quản với báo chí hiện nay, bãi bỏ cơ chế bao cấp tràn lan đối với những tờ báo “vô bổ”,  bãi bỏ những biện pháp ép buộc mua báo, hoắc dùng ngân sách nhà nước để mua báo cho các cơ quan, đoàn thể…, để thoát khỏi tình trạng “nhà nước hoá báo chí” hiện nay, trả lại quy chế độc lập cho báo chí. Những điều này đòi hỏi sửa đổi nhiều điều khoản trong Luật báo chí hiện hành. Ông cũng đặt câu hỏi nên chăng thay tên luật thành “Luật tự do báo chí “, “bởi lẽ ngay cái tên “Luật báo chí” hiện hành đã mặc nhiên thể hiện mục tiêu “quản lý” báo chí hơn là phát huy quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận mà Hiến pháp đã minh định”.

 

[16] Ông Hà Trọng Hoà, bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá, là uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V, và uỷ viên chính thức sau đại hội VI (tháng 12.1986), bị cách chức vào tháng 5.1988, sau gần hai năm các báo trung ương (Tuần Tin Tức, Tiền Phong, Văn Nghệ - bài “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?” của Phùng Gia Lộc) tố cáo nhiều vụ lộng quyền, đàn áp dân, trong khi các báo địa phương lại được ông sử dụng để phản công lại. Báo Thanh Hoá còn đăng nhiều bài nói về thành công của nông nghiệp tỉnh trong khi Thanh Hoá là tỉnh bị nạn đói nặng nhất nước năm 1987-88. Bài phóng sự của Phùng Gia Lộc là tiếng kêu cứu của 2 triệu dân Thanh Hoá bị đói do ông dùng quyền lực vơ vét thóc lúa của họ.

 

[17] Về vụ nông dân Thái Bình biểu tình bạo động năm 1997, xem bài của Vũ Quang Việt trong số này. Vụ bạo động ở Tây Nguyên, xem Tuổi Trẻ 16.4.2004.

 

[18] Ngoài vụ “tiền polymer”, chỉ xin nêu thêm một ví dụ khác: trong một buổi họp giao ban tháng 4.2006, bộ Thông tin – Văn Hoá đã nhắc các báo tốp bớt đưa tin về vụ PMU 18…

 

[19] Trong một buổi họp giao ban giữa tháng 8.2006, ông Nguyễn Thế Kỷ, vụ trưởng vụ Báo chí (ban Tư tưởng – Văn hoá) đã phê phán báo VietNamNet đã tổ chức một diễn đàn trao đổi trên mạng của báo về vấn đề Trung Đông, với những phát biểu có tính chất ủng hộ Israel của ông Nguyễn Lê Bách (nguyên Đại sứ Việt Nam tại Israel và một số nước Trung Đông khác) không đúng với quan điểm đối ngoại của nhà nước, và nhắc nhở là những ý kiến mang tính đối ngoại của quốc gia phải là do các cơ quan có chức năng của nhà nước phát ngôn. Như vậy, ngoài những phát ngôn chính thức ấy, nhà báo và người dân chỉ có quyền “không phát ngôn”.

 

[20] Trong Luật 1999, câu này được sửa là “Thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân”. Lại thêm một cửa ngỏ cho “Đảng” quyền phán xét thế nào là tin tức “phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân”.

 

[21] Tuy nhiên, qua một bản tin về Liên hoan phim Cannes năm nay, người ta cũng được đọc trên báo Thanh Niên (ngày 19.5.2006) một câu nhắc tới vụ “đàn áp ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989”.

 

[22] Một ví dụ: bài phóng sự trên báo Tiền Phong từ 3.6.2006 về số phận gia đình một người bị bắt 20 năm trước vì hưởng ứng một bài thơ chống tiêu cực (thời ấy):

http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=48992&ChannelID=7

 

[23] Xem bài “Những vụ án trắc nghiệm” của Hải Vân trên báo Diễn Đàn mạng: http://www.diendan.org/viet-nam/nhung-vu-an-trac-nghiem/

 

[24] Do điều kiện hạn chế, những thông tin và nhận xét trong bài này chủ yếu dựa trên một số báo có phiên bản điện tử (hoặc báo thuần mạng), phần lớn là báo có tầm quốc gia, dù chính thức chỉ là báo địa phương – nhưng không phải là những tỉnh “xa xôi”! - (như Tuổi Trẻ - của Thành đoàn thành phố HCM - Hà Nội Mới, Sài Gòn Giải phóng… ). Tính chất của vấn đề đặt ra (dân chủ hoá, đổi mới…) cũng dẫn người viết nghiêng hơn về các khía cạnh kinh tế, chính trị, trong khi nhiều vận động của xã hội có khi rất xa với chính trị trong nghĩa hẹp của nó nhưng lại có thể ẩn chứa nhiều nội dung có tác động lớn với nền chính trị đó, thường là gián tiếp nhưng không nhất thiết là phải thông qua sự sàng lọc của thời gian. Báo chí văn nghệ, thể thao chẳng hạn, là những mảng quan trọng không được đề cập tới. Các loại báo chuyên đề về khoa học kỹ thuật hay các loại tạp chí “làm đẹp”, “trang trí nội thất” v.v. cũng không có mặt, dù diện độc giả của những loại báo kể sau khá rộng và bản thân sự có mặt của chúng cũng đã minh chứng cho một xã hội Việt Nam không còn chỉ là “xã hội chủ nghĩa” như một thời chưa xa lắm.

 

[26] Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời nhà báo Đức Minh, báo Đầu tư - http://www.vir.com.vn/Client/dautu/dautu.asp?CatID=18&DocID=9590

 

[27] Tin đăng trên trang web của bộ Văn hoá – Thông tin: http://www.cinet.gov.vn/detail.aspx?source=5&catid=57&newsid=8313.  Song cuối cùng, cuốn sách cũng được phát hành, sau khi Nhà Xuất bản Tri Thức nhận viết thêm một lời ngỏ “Cùng quý vị độc giả” để nói rằng “một số vấn đề được các tác giả tranh luận trong cuốn sách này đã được Đại hội X khẳng định dứt khoát và sẽ tiếp tục được luật hoá để toàn Đảng, toàn dân thực hiện; chẳng hạn như: Tiếp tục kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa; Đảng viên được làm kinh tế tư nhân; Không chấp nhận đa nguyên đa đảng v.v.”. Dĩ nhiên, vấn đề cuối cùng trong danh sách trên mới là cốt lõi của câu chuyện  không cho phát hành sách. Theo nhiều nguồn tin, ban Tư tưởng – Văn hoá đã kiên quyết không cho phát hành sách trước đại hội chính vì trong đó đăng bài của giáo sư Phan Đình Diệu “Một lộ trình cho dân chủ hoá – yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay”, trong đó tác giả, sau khi chỉ ra những bất cập của chế độ chính trị hiện hành, đề ra 5 bước đi cần thiết để dân chủ hoá, với bước cuối cùng là “Thực hiện một cuộc bầu cử thật sự tự do và dân chủ để bầu ra Quốc hội mới và các cơ cấu quyền lực mới. Quốc hội mới sẽ soạn thảo Hiến pháp mới cho một chế độ dân chủ mới”. Đây là bài phát biểu của tác giả tại Hội nghị góp ý kiến vào Dự thảo Báo cáo chính trị của Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức, Hà nội, 14-2-2006, tuy đã được phổ biến trong cuốn sách nhưng không hề được tờ báo trong nước nào đăng lại. Xem Diễn Đàn số 162, tháng 5.2006.

 

©  Thời Đại Mới

 

Trở về trang chủ Thời Đại Mới

 

12-07-2006